NHÂN VẬT TIÊU BIỂU | NGƯỜI CÓ CÔNG
Phần Năm Văn chí Sỹ

                                      PHẦN NĂM

                                              VĂN – CHÍ - SỸ

 

  1. HÀ GIANG
  2. Vương Thị Chờ - Hướng dẫn viên Du lịch

 

                                        VƯƠNG THỊ CHỜ

                                      CHÁU GÁI VUA MÈO

                                HƯỚNG DẪN VIÊN DU LỊCH

                                        Đồng Văn - Hà Giang                                                                          

                                             Sinh năm:  1985
                     Quê quán :    Sà Phìn – Đồng Văn - Hà Giang

 

              Thuộc dòng họ Vương Sà Phìn – Đồng Văn - Hà Giang


Trong dinh thự nhà Vương ở Sà Phìn (Đồng Văn, Hà Giang) xa xôi có một cô thôn nữ người Mông làm hướng dẫn viên đã khiến bao du khách say lòng. Cô gái có cái tên Vương Thị Chờ ấy giống như một ánh lửa thổi bùng lên sự sống cho tòa dinh thự lạnh lẽo, đầy bí ẩn giữa những rặng núi đá tai mèo.

Ngày bé không hiểu vì sao nhà mình giàu!

Chúng tôi đến dinh thự nhà Vương và dường như ngay lập tức bị một cô gái hướng dẫn người Mông “thôi miên” theo những câu chuyện của vị “vua Mèo” nổi danh ở Hà Giang. Ngay từ cổng của tòa dinh thự, bằng một giọng Kinh lơ lớ pha lẫn tiếng Mông, cô gái ấy đã giới thiệu một cách tỉ mỉ xuất xứ của hàng sa mộc đứng uy nghiêm bảo vệ tòa nhà, những hoa văn kì công được vua Mèo thuê chạm khắc và những phiến đá lớn được đưa đến để xây dinh thự…

Trong suốt buổi thuyết minh, cô gái luôn hướng ánh mắt đầy trìu mến của mình vào từng đồ vật. Khác với những hướng dẫn viên mà chúng tôi từng gặp ở nhiều khu du lịch, cô gái mà tôi đang được lắng nghe dường như không có sự ngại ngần nào. Cô sẵn

sàng đưa hai tay mình lên cao như múa để giới thiệu về một hiện vật đặc biệt của tòa dinh thự rồi lại ấp tay vào lòng… Nhìn cách cô say sưa kể về vị vua Mèo, rồi lịch sử của tòa dinh thự bằng con mắt long lanh đầy sự ngưỡng mộ cùng những cử chỉ đơn giản nhưng vô cùng đặc biệt của cơ thể cô, chúng tôi tin rằng chắc cô phải có một mối quan hệ đặc biệt nào đó với dòng họ Vương quyền quý xưa kia và cả tòa dinh thự bí ẩn này.

Sau khi tham quan và nghe hết những câu chuyện sơ lược về tòa dinh thự, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện cùng cô gái đặc biệt ấy. Cô rất cởi mở và chia sẻ về thân phận của mình: “Em là cháu nội thế hệ thứ tư của cụ Vương Chính Đức. Nhánh của ông nội em cũng là nhánh duy nhất còn có con cháu ở Hà Giang. Họ nhà Vương còn có hai nhánh khác ở Hà Nội và ở Mỹ”.

Vương Thị Chờ tâm sự, mẹ cô vốn là một cô gái Mông nhà nghèo ở Đồng Văn được bố cô lấy về làm vợ và sống trong dinh thự nhà Vương. Cả 7 anh em nhà cô đều được sinh ra và lớn lên trong tòa dinh thự ấy. Thời cô sinh ra, tuy vẫn ở trong tòa dinh thự nhưng dòng họ Vương đã không còn vị trí như trước nữa. Cô vẫn cùng đám trẻ ở Sà Phìn cùng chơi với nhau khá hòa đồng. Cô chỉ biết, các hộ gia đình họ Vương được ở trong tòa dinh thự lớn nhất vùng nhưng khi ấy với ý thức của một đứa trẻ, cô cũng không hiểu vì sao gia đình mình giàu, lại có ngôi nhà to, đẹp đến thế.

Chờ kể, khi dinh thự nhà Vương được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia, các hộ gia đình họ Vương vẫn ở trong đó. Và, có khá nhiều phiền phức xảy ra khiến cuộc sống gia đình cô bị xáo trộn. Ví dụ từ chuyện nhỏ nhất, có khi gia đình đang ăn cơm hay làm việc riêng thì có khách tới tham quan… Mãi đến năm 2004, các hộ gia đình họ Vương và chính quyền địa phương mới thống nhất giao hoàn toàn dinh

thự cho ngành văn hóa quản lý. Các hộ gia đình của dòng họ Vương được tạo điều kiện ra xây dựng nhà ở khu vực khác.

Bất ngờ trở thành hướng dẫn viên

Chờ vốn được học hết lớp 12 và cũng như bao cô gái Mông bình thường khác, cô lấy chồng sinh con và bốn mùa quanh quẩn với bắp ngô, củ sắn trên nương. Cô hài lòng với cuộc sống bình dị của mình vì xung quanh cô, bao cô gái Mông cũng vậy.

Năm 2007, tỉnh Hà Giang mở một lớp tập huấn ở địa phương để đào tạo các hướng dẫn viên cho các khu du lịch trong tỉnh. Cô được mời tham dự để trở về làm hướng dẫn viên tại chính di tích nhà Vương. Khi ấy, cô còn nói tiếng Kinh chưa sõi nhưng cô cũng muốn tìm đến một cơ hội thay đổi cuộc đời mình. Hơn nữa, cô cho biết, lớn lên trong tòa dinh thự ấy nên cả tuổi thơ cô đã gắn liền với nó, cô yêu nó như chính cuộc đời mình. Cô vẫn mong muốn được làm một điều gì đó có ích gắn liền với tòa nhà tuổi thơ. Và, Chờ quyết định tham gia vào lớp tập huấn.

Chờ kể, lớp tập huấn chỉ kéo dài có 3 tháng. Tuy nhiên, trong những ngày ngắn ngủi ấy, cô đã được tiếp xúc với nhiều kiến thức mới. Lúc ấy cô mới thực sự hiểu về các giá trị của một di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và cũng từ lớp học này, cô mới bắt đầu nghiên cứu các tài liệu liên quan đến chính tòa dinh thự của gia tộc mình mà bấy

lâu nay cô chỉ lờ mờ nhận biết qua những câu chuyện đứt đoạn của các thành viên trong gia đình.

Chờ tâm sự: Lúc mới làm hướng dẫn, em ngại lắm. Người Mông vốn ít giao tiếp mà lúc ấy em lại chưa thạo tiếng Kinh. Cũng mất đến 2-3 năm học tiếng Kinh cho rõ. Nhưng càng làm thì càng tìm hiểu thêm các kiến thức, càng biết nhiều về các câu chuyện của dòng họ nhà mình và nơi mình đã sinh ra, lớn lên, gắn bó nên em ham mê lắm.

Chờ trở thành hướng dẫn viên trong tòa nhà gắn với tuổi thơ của mình từ năm 2008. Cô cho biết, khi các hộ gia đình họ Vương bàn giao lại tòa dinh thự cho cơ quan văn hóa quản lý, ai cũng tiếc nuối. Bản thân cô vẫn nhìn về tòa nhà như mình vừa đánh mất một phần quý giá của ký ức. Thế nhưng càng về sau, cô càng hiểu rằng, nếu để các gia đình tiếp tục quản lý thì không thể có điều kiện bảo tồn cho tòa dinh thự mãi nguy nga như cũ. Và trong mắt Chờ bây giờ, tòa dinh thự của tuổi thơ vẫn giữ nguyên được vẻ cao sang, quyền quý giữa những hàng sa mộc ở thung lũng Sà Phìn.

Vua Mèo Vương Chính Đức là một vị thủ lĩnh của người dân tộc Mông ở vùng Đồng Văn, Hà Giang. Dinh thự vua Mèo được xây dựng trên một khu đất đẹp, với diện tích 1.120m2 tại thung lũng Sà Phìn, huyện Đồng Văn. Toàn bộ dinh thự có hình mai rùa vững chắc, bao gồm những tòa nhà ngang, dãy dọc quy mô, bề thế với nhiều công trình phụ trợ khác. Dinh thự được vua Mèo Vương Chính Đức thuê thợ từ Trung Hoa sang xây dựng. Các thợ giỏi nhất vùng được huy động để xây dựng liên tục, ròng rã

trong 9 năm trời và tiêu tốn khoảng 150.000 đồng bạc hoa xòe thời bấy giờ (1919-1928). Dinh thự được công nhận Di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1993

 

III. LAI CHÂU

   1.Vương Văn Thành – PCT – UBND tỉnh

 

                                   VƯƠNG VĂN THÀNH

                                      THẦY THUỐC NHÂN DÂN

                      PHÓ CHỦ TỊCH UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH

                                                      Lai Châu

                                               Sinh năm:   1960

                                   Quê quán:

                                  Thuộc dòng họ Vương Lai Châu

                                        Bác sỹ - Thầy thuốc Nhân dân

                           Phó Chủ tịch Uỷ bân nhân đân tỉnh Lai Châu

                       Trụ sở: Phường Tân Phong - Thành phố Lai Châu;

                    ĐT: (0213) 3.876.460, 3.876.370; Fax 0213.3876356 

                                            Email: [email protected]

                                        

  1. BẮC GIANG
  2. Vương Kiều Ân – Nhà Thơ

 

                                            VƯƠNG KIỀU ÂN

                                  Anh Thơ, tên thật là Vương Kiều Ân

                        Các bút danh khác: Hồng Anh, Tuyết Anh, Hồng Minh

                                         Là một nhà thơ nữ Việt Nam.

                                Anh Thơ sinh ngày25 tháng 1 năm 1921

              Tại Thị Trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

                             Quê quán : Thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

                  Thuộc dòng họ Vương Thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

 

    Cha Anh Thơ là một Nhà nho đậu Tú Tài và ra làm Công Chức cho Pháp nên phải thuyên chuyển nhiều nơi, Anh Thơ cũng phải đổi trường học từ Hải Dương sang Thái Bình rồi về lại Bắc Giang mà vẫn chua qua bậc Tiểu học. Ban đầu bà lấy bút danh Hồng Anh, sau mới đổi thành Anh Thơ.

Anh Thơ sáng tác từ sớm, năm 17 tuổi với tập thơ Bức tranh quê, bà được nhận giải khuyến thích của Tự Lực Văn Đoàn, sau đó bà tham gia viết bài cho báo Đông Tây và một vài báo khác.

Anh Thơ tham gia Việt Minh từ năm 1945, từng là Bí thư huyện hội Phụ nữ 4 huyện thời đó Việt Yên, Lục Ngạn, Bắc Sơn, Hữu Lũng, thuộc tỉnh Bắc Giang, Uỷ viên Thường Vụ tỉnh Hội Phụ nữ tỉnh Băc Giang và Lạng Sơn.

Bà là một trong những Hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá 1 và 2.

Từ năm 1971 đến năm 1973, bà làm biên tập viên Tạp chí Tác phẩm mới, Uỷ viên Ban Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

Bà mất ngày14 tháng 3 năm 2005, do bệnh ung thư phổi

Bà được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 2007.

Tác phẩm tiêu biểu

  • Bức tranh quê năm 1939
  • Xưa 1942
  • Răng đen, Tiểu thuyết 1943
  • Hương xuân 1944
  • Kể chuyện Vũ Lăng 1957
  • Theo cánh chim câu 1960
  • Đảo Ngọc 1964
  • Hoa dứa trắng 1967
  • Quê chồng 1979
  • Lệ sương 1995
  • Hồi ký Anh Thơ 2002
  • Bến đò bên sông…

 

 

Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “ Khi chị (Anh Thơ) đến thì phong trào thơ mới đã ổn định với các tên tiêu biểu của nó, nhưng chị vẫn có đóng góp riêng những bức tranh thôn quê xứ Bắc Giang với Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lâm,..Anh Thơ làm giàu thêm lòng yêu quê hương đất nước của người Việt Nam mình

 

  1. Vương Tùng Cương - Nhà Thơ

 

                                             VƯƠNG TÙNG CƯƠNG

                                                          NHÀ THƠ

                                                           Bắc Giang

                                                     Sinh năm :   1947

                                                  Quê quán :  Bắc Giang

                                        Thuộc dòng  họ Vương Bắc Giang

. Tác phẩm:

- Lửa tầm xuân (1997)

- Hoa lối sân chùa (1999)

- Mùa xưa (2002) - Phía gió 

Bà ơi
Đồng sương

Chùa Bổ Đà
Phố sách của tôi
Làng xưa

 Thích nhất

Viết trước ngày giỗ con

 Mới nhất

Gọi rừng
Mình mẹ
Bà ơi
Bắc Ninh đêm ấy
Chiều thu nhớ

 

Tác phẩm:
- Lửa tầm xuân (1997)
- Hoa lối sân chùa (1999)
- Mùa xưa (2002)
- Phía gió sương (2005)
- Gặt với sao mai (2014)

            Phố sách của tôi

Hoa lối sau chùa (1999) 

  1. Bà ơi
  2. Bạn tôi nằm xuống
  3. Bắc Ninh đêm ấy
  4. Chiều thu nhớ
  5. Chùa Bổ Đà
  6. Chùa Dạm chiều
  7. Cuối năm
  8. Đau giấc ngủ
  9. Em về
  10. Gọi rừng
  11. Mình mẹ
  12. Mùa dẻ rụng
  13. Phép màu
  14. Quê nắng
  15. Tìm.....

Phía gió sương (2005) 

  1. Với lá cỏ
  2. Măng đắng
  3. Làng xưa
  4. Đồng sương
  5. Chợ Nếnh
  6. Mùa quê thương nhớ
  7. Đắm đuối Khoang Xanh
  8. Viết trước ngày giỗ con
  9. Tự bạch
  10. Vương Thị Huyền – Thể Thao

                                             VƯƠNG THỊ HUYỀN

                                     3 HUY CHUƠNG VÀNG CỬ TẠ

                                                          Bắc Giang

 

Sinh năm 1992

Quê quán :  Thôn Tiến Bộ, xã Tiến Thắng, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang

Thuộc dòng họ Vương Thôn Tiến Bộ, xã Tiến Thắng, huyện Yên Thế Bắc Giang

Tại giải vô địch Cử tạ châu Á 2019 diễn ra tại Trung Quốc từ ngày 18 đến 28/4, đô cử của Hà Nội Vương Thị Huyền đã xuất sắc giành 3 HCV ở hạng cân 45kg trong ngày thi đấu thứ tư (21/4).

Chung kết hạng cân 45 kg nữ với sự góp mặt của 5 đô cử, trong đó 2 đại diện của Việt Nam là Vương Thị Huyền và Khổng Mỹ Phượng.

Diễn biến ở chung kết, Vương Thị Huyền đạt thành tích cử giật là 76 kg, cử đẩy 92 kg và tổng cử 168 kg, qua đó thâu tóm cả 3 HCV. Trong khi đó, đồng đội Mỹ Phượng giành HCĐ cử giật với mức cử 70 kg và xếp hạng 4 tổng cử khi đạt 157 kg.

Giải vô địch cử tạ châu Á được xem là Vòng loại Olympic 2020, đây là cơ hội để Vương Thị Huyền và đội tuyển cử tạ Việt Nam tích lũy điểm nhằm giành tấm vé chính thức tới Nhật Bản vào hè năm 2020. Tại Olympic 2016 VĐV Hà Nội Vương Thị Huyền cũng từng xuất sắc giành vé chính thức đến Rio Brazil.

Tại Cúp thế giới tổ chức vào tháng 2 vừa qua ở Trung Quốc, Vương Thị Huyền từng đoạt 1 HCB, 2 HCV nên đến giải đấu này VĐV người Hà Nội được đánh giá gần như không có đối thủ

Huy chương vàng cử tạ SEA GAMES 30 Tại Philippin 2019

 

  1. BẮC NINH
  2. Vương Trí Nhàn – Nhà Thơ

 

                                              VƯƠNG TRÍ NHÀN

                                                             NHÀ THƠ

                                           Đông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh

                                              Sinh ngày 15 tháng 11 năm : 1942

                                                              Tại Hà Nội.

                    Quê quán:  xã Đông Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

           Thuộc dòng họ Vương Đông Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

                              Vương Trí Nhàn là một nhà nghiên cứu văn hóavăn học 

                                 Là nhà phê bình văn học của Việt Nam.

      Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm, hệ 3 năm vào năm 1964, sau đó gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam cho đến đầu năm1979. Trong quân đội ông có nhiệm vụ chính là dạy học và về sau làm báo. Ông từng giáp mặt với thực tế chiến trường như B5, B4.

Các bài viết của ông xuất hiện trên báo Văn Nghệ từ tháng 3 năm 1965, sau đó ông viết đều đều trên các báo Văn Nghệ,Văn Nghệ quân đội. Từ 1985 trở đi, bài của ông còn xuất hiện trên Thể thao văn hóaTuổi trẻ chủ nhậtKiến thức ngày nayv.v. cùng với các bài nghiên cứu dài thì được in trên tạp chí Văn học. Ông có một số bài viết về một số vấn đề, một số tác giả văn học chiến tranh và có dự định sẽ trở lại với đề tài này, khi về hưu.

Đầu năm 1968, ông chuyển về công tác ở tạp chí Văn Nghệ Quân đội. Tới đầu 1979 ông sang công tác cho Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Đây là những cơ quan người sáng tác đông hơn người nghiên cứu phê bình. Việc này có ảnh hưởng quyết định đến những đề tài những tác giả mà ông quan tâm cũng như ảnh hưởng tới cách viết của ông. Năm 1977, ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.

Ông học tiếng Nga từ đầu thập niên 1970, ông có một số bài dịch từ tài liệu tiếng Nga về một số tác phẩm văn học, cũng như biên soạn một tập sách mang tên Sổ tay truyện ngắn dựa vào tài liệu tiếng Nga. Năm 1990, khi đang học tại trường viết văn Gorki của Nga, dù chưa gặp nhưng qua các tác phẩm, ông đã có nhận xét nổi tiếng: về "khuôn mặt nhàu nát vì đau khổ" của Nguyễn Huy Thiệp.

Lúc đầu ông chỉ tập trung về mảng văn học đương đại cho đến đầu thập niên 1980, ông có ý thức dần dần trở lại với văn học sử, nhất là giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20 và đã viết một số bài nghiên cứu về các nhà văn tiền chiến (Thạch LamVũ Trọng Phụng v.v.) và đang bổ sung tập hợp thành sách.

Tới đầu thập niên 1990, trước các hiện tượng văn học quen thuộc, ông lại muốn ngả sang cách tiếp cận văn hoá học. Ban đêm ông tự học thêm về lịch sửdân tộc họcxã hội học, v.    -   Sổ tay truyện ngắn (Sưu tầm, biên soạn, dịch, Tác phẩm mới 1980, in lại 1998)

  -    Bước đầu đến với văn học (tiểu luận phê bình, Tác phẩm mới 1986)

  -    Một số nhà văn VN hôm nay với Hà Nội (kể chuyện đời sống văn học, Hà Nội, 1986)

       -    Những kiếp hoa dại (chân dung và phiếm luận văn học, Hội Nhà văn, 1993, in lại 1994)

       -    Cánh bướm và đóa hướng dương (tiểu luận phê bình, Hải Phòng, 1999)

       -      Cây bút, đời người (tập chân dung văn học, Nhà xuất bản Trẻ, 2002; Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2007)

       -    Những chấn thương tâm lý hiện đại (phiếm luận, Nhà xuất bản Trẻ, 2009)

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã nhận xét về ông:

Nhà báo Vương Tâm trên những nẻo đường không phải là người tiếp cận thật sâu một vấn đề gì đó và triển khai nó đến tận cùng, mà thường vấn đề gì cũng lướt qua một cách nhẹ nhàng, nhưng lại có những nhận xét khá thâm thúy.[cần dẫn nguồn]

Nhà văn Ngô Thảo, người tự khẳng định rằng mình thân với ông Vương Trí Nhàn, sau khi đọc bài "Tri thức hiện đại: Không được tạo dịch nói xấu người Việt" đã nhận xét Vương Trí Nhàn trong bài "Phải nghiêm cẩn khi bàn đến tính cách của cả dân tộc !" như sau:

"Người ta nói, anh Vương Trí Nhàn từ một nhà phê bình văn học trở thành một nhà nghiên cứu văn hóa. Tôi rất nghi ngờ tính khoa học những loạt bài đó."

"Anh Nhàn là người ham học hỏi, đọc rất nhiều, nhưng cái kiến thức và cái tư tưởng của anh Nhàn, tôi rất nghi ngờ. Đó là khoảng cách của một người

chủ trương phê phán thị trường, nhưng chính mình lại chìm ngập trong thị trường"

"Nói ngay như trong cái Hội Nhà văn bé tý, có rất nhiều người dù đã quá tuổi về hưu, lẽ ra phải về để nhường chỗ cho lớp trẻ, thế nhưng vẫn cứ tha thiết

xin ở lại, bấu víu lấy nó... Ông Nhàn vẫn tha thiết xin ở lại Nhà Xuất bản. Vì nếu không ở lại, không ai cho ông ấy giới thiệu sách cả."

Tuy nhiên do bị sự phản đối chê cười của dư luận, bài báo của ông Thảo đã phải gỡ xuống và bài phỏng vấn của Sơn Khê với Vương Trí Nhàn "Tri thức hiện đại: Không được tạo "dịch nói xấu người Việt"" cũng đã bị xóa trống trơn sau có mấy ngày mà không có lời giải thích lý do.              

 

  1. HÀ NỘI
  2. Vương Duy Biên – NSND – HỌA SỸ - THỨ TRƯỞNG BỘ VHTTDL

 

                                           VƯƠNG DUY BIÊN

                                               NGHỆ SỸ NHÂN DÂN

                    THỨ TRƯỞNG BỘ VĂN HOÁ – THỂ THAO – DU LỊCH

                                      Sinh ngày 22 tháng 8 năm 1958

                                          Quê quán: Hoài Đức, Hà Nội.

                        Ông thuộc dòng tộc họ Vương Hoài Đức, Hà Nội.

                             Tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Hà Nội năm 1987

                                        Thành viên Hội Mỹ thuật Việt Nam

Điện thoại : 0913 224 512

Gamil: [email protected]

        Đạt nhiều giải thưởng lớn trong nước và quốc tế trong hoaatj động nghệ thuật múa rối với vai trò là chỉ đạo nghệ thuật, Tác giả kịch bản, Hoạ sỹ thiết kế, Tạo hình múa rối.

Nhiều tác phẩm nghệ thuật đã được đưa vào bộ sưu tập cá nhân và được trưng bày tại các bảo tàng nghệ thuật Nhật, Ý, Pháp, Hà Lan, Mỹ

Ông được Nhà nước phong Danh hiệu Nghệ sỹ Ưu tú năm 2007, Nghệ sỹ Nhân dân Năm 2015

Được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch năm 2012, ông được phân công phụ trách nhiều lĩnh vực quan trọng của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch: Nghệ thuật biểu diễn, Điện Ảnh, Mỹ thuật nhiếp ảnh và Triển lãm,Quản lý nhà nước về Văn học nghệ thuật. theo dõi chỉ đạo các cơ quan: Cục nghệ thuật biểu diễn, Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, Khối các nhà hát, Khối triển lãm, Các đơn vị sự nghiệp Điện ảnh, Các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ.

Sau khi nghỉ hưu năm 2018, ông được Chính phủ quyết định kéo dài thời gian giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.

Sinh ra trong một gia đình nhà nòi làm nghệ thuật, bố là cụ Vương Như Chiêm, một người hoạt dộng trong lĩnh vực Mỹ thuật, nguyên Giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, mẹ của ông là nhà văn Lý Thị Chung, nguyên Tổng biên tập Báo Phụ nữ Thủ đô.. Những người anh, người em của Vương Duy Biên cũng đều theo ngành Mỹ thuật. Vì vậy nghệ sỹ Vương Duy Biên đam mê nghệ thuật từ khi còn bé. Từ Thập kỷ 90, khi còn là một cái tên khá mới mẻ trong làng điêu khắc, nghệ sỹ Vương Duy Biên đã gây tiếng vang khi trở thành nhà điêu khắc đạt giải nhất cuộc thi Mẫu tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tại Nam Định, và bức tương đồng Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, được khánh thành năm 2010 tại thành phố Nam Định.

Năm 1993, nghệ sỹ Vương Duy Biên đã tổ chức triển lãm tranh lụa cá nhân tại Hà Nội, được giới chuyên môn và công chúng nghệ thuật đánh giá rất cao. Khi trở thành Cục trưởng Cục nghệ thuật biểu diễn, rồi Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, nghệ sỹ Vương Duy Biên vẫn miệt mài sáng tạo và cho ra nhiều tác phẩm có giá trị.

                  Những triển lãm tác phẩm tiêu biểu trong nước và quốc tế

  • Triển lãm tranh lụa tháng 3 năm 1993, tại Hà Nội
  • Triển lãm 80 tác phẩm, tại làng Bố Tép, xã Hiền Ninh, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
  • Tham gia nhiều triển lãm Châu Á, tháng 12 năm 1995 tại Osaka Nhật Bản
  • Triển lãm lụa các nhân tháng 2 năm 1996 tại Paris Pháp
  • Triển lãm lụa cá nhân tháng 8 năm 1996, tại Hà Nội
  • Triển lãm lụa cá nhân tháng 6 năm 1997, tại Chaumont Pháp
  • Tham gia triển lãm nghệ thuật đương đại ViệtNam. Tháng 9 năm 1997 tại Bắc Kinh, Trung Quốc
  • Triển lãm Sơn mài cá nhân tháng 5 năm 2002 tại Đức
  • Tham gia các cuộc triển lãm Mỹ thuật toàn quốc hoặc các triển lãm chuyên đề về điêu khắc tại Việt Nam.
  • Đã có tác phẩm điêu khắc đặt tại một số địa phương
  • Tượng anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo tại tỉnh Nam Định, Đảo Hoàng Sa.

Thông điệp nghệ thuật của nghệ sỹ Vương Duy Biên

“ Nghệ thuật có vô vàn cách biểu hiện, có thể rất phức tạp hoặc rất đơn giản… điều quan trọng nhất không thể thiếu là cảm xúc, nghệ thuật không có cảm xúc như con người không có tâm hồn”

  1. Vương Tâm - Nhà Thơ – Nhà Báo

 

            VƯƠNG TÂM

                                              NHÀ THƠ – NHÀ BÁO

                                  Hương Ngãi – Thạch Thất – Hà Nội

                                                               Sinh năm 1946.

                            Quê quán : Hương Ngãi, Thạch Thất, Hà Nội

                         Thuộc dòng họ Vương Hương Ngãi, Thạch Thất, Hà Nộị

                                       Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

   Đã xuất bản 40 đầu sách, gồm thơ, truyện ngắn và tiểu thuyết. Giành nhiều giải thưởng văn chương như: Giải thơ 5 năm đầu tiên của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội 1980 - 1985; Giải Nhì truyện ngắn cuộc thi báo Người Hà Nội năm 2006; Giải A cuộc thi thơ tình báo Văn nghệ năm 2007; Giải ba truyện ngắn 1200 từ báo Tuổi trẻ năm 2008; Giải nhất cuộc thi Bút ký - Phóng sự báo Người Hà Nội năm 2010.

Nhà báo kiêm nhà thơ Vương Tâm, nguyên Trưởng ban báo Hà Nội mới Cuối tuần, là người con của xứ Đoài mây trắng. Ông được sinh ra trong hơi thở của vùng đất đá ong nồng ấm và lớn lên cùng với tiếng đàn bầu của ông nội, tại làng Hương Ngải (Thạch Thất - Hà Nội). Bốn mươi năm làm báo và theo đuổi sự nghiệp văn chương, ông đã để lại những dấu ấn thật khó quên.

Ông yêu mảnh đất quê hương và say mê viết về Hà Nội với tất cả tình cảm chân thành nhất. Nhiều giải thưởng báo chí đến với ông như một sự khích lệ đáng trân trọng. Đặc biệt năm 2010, nhân kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, ông đã được giải Nhất trong cuộc thi phóng sự, bút kí về Hà Nội, do báo Người Hà Nội tổchức. Bên cạnh đó, ông cũng đoạt những giải thưởng cao trong lĩnh vực văn chương như giải A thơ tình báo Văn Nghệ (2006-2007); giải Nhì truyện ngắn do báo Người Hà Nội tổ chức năm 2006; Giải Ba truyện ngắn 1.200 từ của báo Tuổi trẻ TPHCM năm 2008...

Thời gian đối với nhà báo Vương Tâm ngỡ như không khi nào già nua. Dù đã bước sang tuổi 70, ông vẫn mê mải đi như thời còn trẻ. Ông thường tự mình lái xe rong ruổi trên những nẻo đường xa. Có những lần đụng xe, bị gẫy xương đòn, xương sườn, vết thương chưa kịp lành nhưng ông vẫn quyết tâm lên đường để thực hiện cho được những đề tài mình đã dự định.

Nhà báo Vương Tâm là thế đó. Đi và đi. Viết báo và sáng tác văn chương đã trở thành cái nghiệp cột lấy cuộc đời ông. Tính đến nay, ông đã xuất bản được hơn 40 đầu sách với các thể loại khác nhau như thơ; trường ca; truyện ngắn, tiểu thuyết; bút kí phóng sự và biên soạn báo chí... Hiện ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Đầu năm 2015, ông xuất bản tập truyện ngắn mới nhất: “Nỗi đau đắng ngắt” - NXB Văn học. Đây là những nỗi niềm về thân phận, đời người với những hoàn cảnh trớ trêu mà ông đã gặp trên những nẻo đường đã qua.

Với nhiều bút danh khác nhau, ông đã viết hàng trăm phóng sự, bút kí và ghi chép in trên nhiều tờ báo từ địa phương đến trung ương. Nhà báo trẻ Nguyễn Văn Học (báo Nhân dân Cuối tuần) đã từng viết về ông, với những dòng chia sẻ trên những chuyến đi: “Tôi và ông thường có những chuyến của hai người. Những chuyến đi đôi khi chỉ là để tìm hiểu một vùng đất, để viết một bài báo nhỏ, thậm chí chỉ để chịu cái nắng nôi gió cát cho thấu thêm nhịp sống ở đời. Ông nhanh nhẹn và tôi còn trẻ. Ông chỉ bảo và tôi biết lắng nghe. Chúng tôi theo kịp sức khỏe của nhau dù một người đã hơn 60 còn một người chưa đầy 30…”.

Còn nhà báo Nghiêm Nhan (Đài Truyền hình Việt Nam) cũng đã nhìn nhận về nhà báo Vương Tâm với một nét họa thú vị: “Mọi người luôn hình dung anh là kẻ vui đâu chầu đấy, thoáng đây, thoắt đó. Ngay đến người vợ trước của anh vẫn thường đã rêu rao rằng, nếu Vương Tâm là con gái thì ít ra cũng phải chửa hoang đến mươi lần. Mọi người cười. Anh cũng phì cười rồi nói: “Tính tớ thế, không sửa được!”. Còn một độc giả trung thành thì nhận xét: “Vương Tâm chẳng dám nói “không” với ai bao giờ”.

Gần hai chục năm nay, không năm nào Vương Tâm không in sách. Một số tác phẩm được tái bản lần thứ hai, thậm chí có cuốn sách biên soạn về ca khúc được nhiều người yêu thích còn được tái bản tới mươi lần.

Đi và đi. Ông say mê đúng với nghĩa một nhà báo “bị giời đày” và yêu cuộc sống một cách kì lạ. Có những lúc ông “tự thu” về đời mình rằng: “Một văn, một báo, một thơ. Ba trong Một tớ khù khờ rong chơi”. Vương Tâm tự nhận mình là khù khờ, nhưng ai cũng hiểu ông là một nhà báo làm việc không biết mệt mỏi, thầm lặng, nhẫn nại và dạt dào cảm xúc trong mỗi con chữ

Khen thưởng: - Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng ba

Nỗi cô đơn cùng ta 

Nỗi cô đơn cùng ta lang thang trên phố 

Chen giữa dòng người vội vã cười vui 

Tiếng huýt gió chót vót lưng trời 

Bài ca cuộc sống 

Nỗi cô đơn ngủ trong giấc mộng 

Rùng mình vì gió lạnh hoang vu 

Và cô gái ngoái lại tình cờ 

Nhìn nỗi cô đơn cùng ta ngơ ngác 

Nỗi cô đơn bỗng dưng ca hát 

Khi trở về nhà 

Nào rap, nào break dance hoan ca 

Cố bù lấp khoảng vô cùng trống vắng 

Nhưng nỗi cô đơn vẫn thầm lặng 

Như hoa héo rũ trên bàn 

Trong đêm màn sương tỏa lan 

Nỗi cô đơn cùng ta bay về xứ tuyết 

Ngóng hoài cuộc chia ly da diết 

Giật mình trở giấc thở dài 

Nỗi cô đơn mồ côi 

Mỗi khi ánh dương bừng sáng 

Lời chim hót chuốt từng sợi nắng 

Tiếng động của ngày náo nức cồn cào 

Nỗi cô đơn rung nhịp đập khát khao 

Lại cùng ta lao đi hối hả 

Cũng xô đẩy, cũng ngã kềnh cãi vã... 

Cố giấu đi tiếng nghẹn tâm hồn 

Xin hãy đốt cháy nỗi cô đơn 

Cho ta bùng nổ 

Và rắc nắm tro tàn xuống bồn hoa rực rỡ 

Làm thắm thêm những sắc màu xanh, đỏ, tím, vàng... 

Có phải em đấy chăng? 

Nỗi cô đơn ấm nóng 

Se sẽ ngồi bên ta cùng đi vào giấc mộng 

Mỉm cười.

Chấp nhận

Nhiều khi ta giật mình vì những bất ngờ 

Về những khoảng trống trong viên ngọc quý 

Hoặc giấu ẩn phía sau giọt lệ 

Là một trái tim dối trá quanh co 

Nhiều khi ta phải trả giá vì nỗi ngây thơ 

Mặt trái của thời gian rủi ro tuổi tác 

Và cả tình yêu ngỡ trong veo cung nhạc 

Nhưng lại thường chuốc lấy khổ đau 

Nhiều khi ta tê tái buồn rầu 

Bởi đôi mắt kia nhìn ta đắm đuối 

Những mê say quay cuồng nông nổi 

Đã biến thành trò giễu cợt đùa vui 

Nhiều khi ta lầm lẫn đúng sai 

Bởi tâm hồn tràn ngập yêu thương dâng hiến 

Và khi con sông xoáy lũ về với biển 

Nếu có chết xin đừng oán trách một ai  

  

  1. Vương Đức -   Hà Nội – Đạo diễn Điện Ảnh

                                              

                                            VƯƠNG ĐỨC  

                  NGHỆ SỸ ƯU TÚ - ĐẠO DIỄN ĐIỆN ẢNH    

                                                 Hà Nội

                                        Đạo diễn Vương Đức

                                           Sinh năm : 1957

                              Quê quán: Tại Thành phố Hà Nội.

                         Thuộc dòng họ Vương Thành phố Hà Nội.

           Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh

    Vương Đức xếp hạng nổi tiếng thứ 73476 trên thế giới và thứ 64 trong danh sách Đạo diễn nổi tiếng.

Vương Đức là một đạo diễn điện ảnh Việt Nam.

Ông là Giám đốc Hãng phim truyện Việt Nam.
Những bộ phim do ông dàn dựng như: Những người thợ xẻ, Tâm hồn mẹ, Của rơi, Rừng đen...

Sau bộ phim "Rừng đen", ông vắng bóng một thời gian dài. Mới đây, ông trở lại với điện ảnh trong bộ phim "Nhà tiên tri". Đây là bộ phim về Chủ tịch Hồ Chí Minh do nhà biên kịch Hoàng Nhuận Cầm viết kịch bản, quay phim Vũ Quốc Tuấn, diễn viên chính đóng vai Bác Hồ là NSƯT Bùi Bài Bình. Bộ phim tái hiện những năm tháng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại núi rừng Việt Bắc những năm 1947, 1948, 1949… thể hiện trí tuệ, nhân cách, sự giản dị đến phi thường của vị lãnh tụ “áo nâu túi vải” trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp… Hiện đoàn đang thực hiện các cảnh quay tại Hòa Bình…

Đạo diễn Vương Đức từng giành được giải thưởng Cánh Diều Vàng Việt Nam cho Phim điện ảnh xuất sắc nhất. 
Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Nhà nước với cụm 3 tác phẩm Điện ảnh: Cỏ lau, Những người thợ xẻ và Của rơi. 
Ông được nhà nước trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.                  

  1. Vương Trần Lâm – Nghệ Nhân nghề gốm

 

                                            VƯƠNG TRẦN LÂM 

                                     NGHỆ NHÂN NGHỀ GỐM

                                              Bát Tràng, Hà Nội

                                           Sinh ngày          19

                                   Quê quán:    Bát Tràng, Hà Nội

                        Thuộc dòng họ Vương Bát Tràng, Hà Nội

                           Trình độ:     Nghệ nhân

                           Danh hiệu :  Nghệ nhân nghề gốm

             Địa chỉ; Số 141B, Nguyễn Ngọc Vũ, P. Trung Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội

                   Nơi công tác:  Làng nghề Gốm Bát Tràng, Hà Nội

                   Chức vụ:............................................................................

                   Qúa trình công tác:.............................................................

                   Thành tích khen thưởng:...................................................

                   Điện thoại :  0983 768 812

                   Gamil:  [email protected][email protected]

 

  1. Vương Tuyết Mai – Nhà Thơ

 

                                       VƯƠNG TUYẾT MAI

                                                        NHÀ THƠ

                                                            Hà Nội

                                                     Sinh năm:  1974

                                              Quê quán :    Thành phố Hà Nội

                                               Thuộc dòng họ Vương Hà Nội

Vương Tuyết Mai sinh năm 1974, tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1997, hiện đang công tác tại Đại học Y Hà Nội. Đã có thơ và truyện ngắn 

 Đọc nhiều nhất

Hoa mướp
Trái tim e ngại
Thật với đêm
Cỏ hồng
Đen và trắng

 Thích nhất

Thật với đêm
Dấu lặng tháng tư
Mùa thiếu nữ
Thưa Nội
Hoa mướp

 Mới nhất

Vương Tuyết Mai sinh năm 1974, tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1997, hiện đang công tác tại Đại học Y Hà Nội. Đã có thơ và truyện ngắn đăng trên các báo: Áo trắng,

 

Văn nghệ trẻ, Tiền phong, Thế giới đàn ông.

Tác phẩm:
- Đêm trắng (thơ, NXB Thanh Niên - 2001)

  1. Hoa mướp
  2. Mùa thiếu nữ
  3. Sinh nhật
  4. Thưa Nội

Đêm trắng 

  1. Cỏ hồng
  2. Dấu lặng tháng tư
  3. Đen và trắng
  4. Huế
  5. Sang mùa
  6. Thật với đêm
  7. Trái tim e ngại
  8. Mơ giấc tuổi thơ
  9. Trò chơi
  10. Ánh sao mơ
  11. Tạ ơn
  12. Bài hát ngày
  13. Vương Tử Lâm - Họa Sỹ

                                                VƯƠNG TỬ LÂM

                                                           HOẠ SỸ

                                                             Hà Nội

                                                        Sinh năm : 1962

                                                    Quê quán :

                                                    Thuộc dòng họ Vương :

Cuối năm ngoái, nhân xem một loạt triển lãm cuối năm tại Hà Nội, tôi định viết một bài lấy tên là “Bí cờ” để nói đôi nét về tình trạng “ô nhiễm” và luẩn quẩn của hội họa trẻ nói chung mà tôi cảm thấy suốt trong năm 2011. Có họa sĩ vẽ toan rất to, màu rất nhiều, nhưng kỹ thuật sơn dầu chưa đến nơi đến chốn. Có những họa sĩ vẽ sơn dầu rất giỏi, nhưng nội dung đưa ra thì cứ như nồi cháo thiu… Nhưng do một số lý do nên mãi không viết xong. Cho đến năm nay, mới thấy có một vài triển lãm đưa hội họa thoát ra khỏi tình trạng “bí cờ” ấy. Một trong những triển lãm ấy, là triển lãm của họa sĩ Vương Tử Lâm.

Vương Tử Lâm tốt nghiệp ngành điêu khắc từ trường Mỹ thuật Công nghiệp năm 1981, sống bằng nghề nhạc, hiền, lịch và náu mình, ít người biết về ông. Không phải ai cũng hay rằng họa sĩ là một trong rất hiếm người đủ ngoại ngữ để đọc trực tiếp những sách nghiên cứu sâu và dịch thuật về nghệ thuật tạo hình để phục vụ cho sáng tác cá nhân. Ông tâm sự, sau năm 1997, ông rút hẳn chân ra khỏi đời sống sáng tác, một phần bởi vì không thích bị coi việc vẽ là “lộp chộp” không có nghiên cứu gì, vẽ vời theo kiểu “từ trên trời rơi xuống”, và ông phát triển từ những nhận thức và nghiên cứu của mình cho một loại hội họa lội ngược dòng quay “về nguồn”, đào sâu vào những mẫu thức của các bậc thầy và lý giải lại ngôn ngữ nội tại của hội họa. Điều này ắt sinh ra kết quả cuối cùng là một loại hội họa mang tính trừu tượng, không có hình thể và đối vật miêu tả, chắc chắn là khó xem và kén người xem. Người bận tâm nhiều về nguyên do của nghệ thuật hẳn xem được thì thích thú. Còn kẻ nông cạn hoặc chỉ thích đến triển lãm để xem “trò mới” thì chắc là chê ỏng chê eo. Điều đó cũng chẳng sao vì ở ta, việc phát triển một loại hội họa mang tính lý thuyết và cực đoan thì gần như không có đất, trong khi đám đông thì chỉ hâm mộ loại tranh “biểu hiện duy tình” và nhạc sướt mướt. Trong khi hội họa “biểu hiện duy tình”, đúng là khi đứng cạnh loại hội họa lý thuyết, nó tương tự như nhạc vàng đứng cạnh nhạc bác học (so sánh vậy là vấn đề gọi tên thể loại và tầng bậc, tôi không có ý chê bai nhạc vàng kém nhạc giao hưởng thính phòng. Vì mỗi loại có giá trị riêng, đối tượng riêng).

Những bậc thầy cổ điển, khi đã bị xếp lên giá sách và vào bảo tàng, thì buồn nỗi là ít ai quay về nghiên cứu họ kỹ càng, trừ sinh viên đang học nghệ thuật. Trong khi Picasso (lại Pi) khi già rồi, thành bậc thầy rồi, vẫn vào bảo tàng để chép tranh và nghiên cứu các bậc thầy trước ông để chứng tỏ việc nghiên cứu lại những tiền nhân khổng lồ không bao giờ là thừa. Họ cho ta những gợi ý lúc ta “bí cờ”, họ cho ta những “mẫu tự” có tính biểu tượng để khi tranh luận nghệ thuật, những “thằng thắc mắc đểu” phải ngậm miệng lại (kiểu như cái bồn tiểu Duchamp). Vương Tử Lâm bận tâm nghiên cứu hai chủ đề lớn “khó nhằn” trong môn “toán lý thuyết của hội họa” là cấu trúc và không gian. Những bậc thầy được ông dẫn giải dài dòng làm trục gợi ý nhận thức cho mình là Cezanne (1839 – 1906), Mondrian (1872 – 1944) và Mark Rothko (1903 – 1970). Và trao đổi riêng của ông về mục đích hội họa là: Những câu hỏi lớn của nhân loại thì những ông tay to hơn mình nó trả lời hết rồi. Mình chỉ trả lời câu hỏi nhỏ cho bản thân mình thôi. Do vậy, hội họa của Vương Tử Lâm đưa ra không còn là thách thức nữa, vì nó không thách thức gì cả và cũng không phải thời điểm, đó chỉ là sự tự thức mà thôi. Với chiêm nghiệm của một người đã qua tuổi “ngũ thập”, thì tác phẩm của họa sĩ còn vượt thoát được khỏi sự “ô nhiễm” của bầu không khí hội họa nói chung hiện nay. Và tiệm cận tới tầm ý nghĩa của những chủ đề ông quan tâm. Điều này tôi sẽ giải thích kỹ hơn ở dưới:

  1. Vương Nghiêm – Họa Sỹ - Kiến trúc sư

 

                                         VƯƠNG NGHIÊM

                                          HỌA SỸ - KIẾN TRÚC SƯ

                                   Hương Ngãi – Thạch Thất – Hà Nội

                                                       Ngày sinh : 

                          Quê quan:   Hương Ngãi – Thạch Thất – Hà Nội

                Thuộc dòng họ Vương Hương Ngãi – Thạch Thất – Hà Nội

                  Đơn vị công tác: Nhà Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh

                              Đoàn Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh

 

  1. Vương Thu Phương - Siêu người mẫu

 

                                            VƯƠNG THU PHƯƠNG

                                                      SIÊU NGƯỜI MẪU

                                                                 Hà Nội

                                                     Sinh:     1991

                                                Quê quán :   Hà Nội

                               Nơi sống và làm việc:  Thành phố Hồ Chí Minh

Vương Thu Phương sở hữu gương mặt khả ái, chiều cao 1,76m cùng số đo ba vòng: 87-64-97. Cô từng tham gia cuộc thi “Siêu mẫu 2010” và giành giải Siêu mẫu ăn ảnh.

Chưa vừa lòng với thành tích này, Vương Thu Phương tiếp tục thử sức lại ở cuộc thi năm sau và đoạt danh hiệu cao nhất (Giải Vàng Siêu mẫu).
Trước khi bắt đầu sải bước trên sàn catwalk, Vương Thu Phương từng là vận động viên bóng chuyền (thi đấu cho đội Hà Nội). Sau khoảng thời gian 5 năm theo đuổi thể thao với nhiều thành tích cao, cô đã quyết định đi theo nghề người mẫu, phần vì niềm đam mê với sàn catwalk, phần vì gặp phải nhiều chấn thương ngoài mong muốn nên không thể tiếp tục sự nghiệp thi đấu.

Vương Thu Phương được đánh giá là một nhan sắc khá đặc biệt của showbiz Việt ngay từ khi mới xuất hiện. Với chiều cao 1m79 cùng thân hình chuẩn của một siêu mẫu, người đẹp gốc Hà Nội dễ dàng vượt qua hàng loạt đối thủ tài năng để giành được chiếc cúp vàng ở cuộc thi Siêu mẫu Việt Nam 2012. Cô trở thành ứng cử viên nặng ký nhất giành chiếc vương miện hoa hậu khi tiếp tục đăng ký cuộc thi Hoa hậu Việt Nam được tổ chức cùng năm.

Vương Thu Phương được đánh giá là một nhan sắc khá đặc biệt của showbiz Việt ngay từ khi mới xuất hiện. Với chiều cao 1m79 cùng thân hình chuẩn của một siêu mẫu, người đẹp gốc Hà Nội dễ dàng vượt qua hàng loạt đối thủ tài năng để giành được chiếc cúp vàng ở cuộc thi Siêu mẫu Việt Nam 2012. Cô trở thành ứng cử viên nặng ký nhất giành chiếc vương miện hoa hậu khi tiếp tục đăng ký cuộc thi Hoa hậu Việt Nam được tổ chức cùng nă Sau 6 năm lập nghiệp tại Tp.HCM, Vương Thu Phương vừa chính thức ra mắt mọi người với vai trò mới. Cô lên chức bà chủ Cốm Mộc - một nhà hàng ẩm thực với những món đặc sản của đất Hà thành. Cùng với sự trợ giúp của người chị thân thiết, Vương Thu Phương nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ mẹ của mình. Thương con gái một mình, mẹ của giải vàng siêu mẫu đã vào Sài thành để trở thành đầu bếp chính của nhà hàng. Hai mẹ con tự tìm kiếm nguyên liệu, nấu thử rất nhiều lần để ra được những công thức đặc biệt cho các món ăn truyền thống của người Hà Nội nhưng phù hợp với khẩu vị người miền Nam.

Người mẫu Vương Thu Phương sinh năm 1991 tại Thành phố Hà Nội. Cô sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh. Vương Thu Phương xếp hạng nổi tiếng thứ 72677 trên thế giới và thứ 1786 trong danh sách Người mẫu nổi tiếng.

 

10.Vương Ngọc Đoàn  – Bác Sỹ

 

                                         VƯƠNG NGỌC ĐOÀN

                                                    BÁC  SỸ

                                   Đại Mạch – Đông Anh – Hà Nội

                                                       Ngày sinh : 

                          Quê quan:  Đại Mạch – Đông Anh   – Hà Nội

                Thuộc dòng họ Vương Đại Mạch – Đông Anh   – Hà Nội

               Địa chỉ: Khu Bê tông Cổ Điển – Hải Bối- Đông Anh – Hà Nội

               Điện thoại: 0904 218 786 – Gmail: [email protected]

               Đơn vị công tác: Bệnh viện phụ sản Hà Nội

               Trình độ đào tạo: Bác sỹ đa khoa

               Chức vụ: Trưởng phòng Kế hoạch tổng hợp

               Qúa trình công tác:

               Thành tích khen thưởng:   

 

   11.Vương Duy Tâm  – Kỹ sư – Nhà thơ

 

                                         VƯƠNG DUY TÂM

                                                    Kỹ sư – Nhà thơ

                                   Hương Ngãi – Thạch Thất – Hà Nội

                                                       Sinh năm: 1946

                          Quê quan: Hương Ngãi – Thạch Thất – Hà Nội

                  Thuộc dòng họ Vương Hương Ngãi – Thạch Thất – Hà Nội

               Địa chỉ: Thành phố Hả Nội

               Điện thoại: 0903 438 324 – Gmail:

               Đơn vị công tác: Báo Hà Nội mới

               Trình độ đào tạo: Kỹ sư

               Chức vụ: Trưởng ban

              

      

VII. HẢI DƯƠNG

  1. Vương Kim Chi –  Phó trưởng Ban Biên tập

 

                                          VƯƠNG KIM CHI

                                     BAN NỘI CHÍNH TRUNG ƯƠNG

                      PHÓ TRƯỞNG BAN BIÊN TẬP BÁO NHÂN DÂN

                        Khuê Liễu - Tân Hưng - Thành phố Hải Dương                                          

                                          Sinh ngày 3 tháng 2 năm  1963                    

                                       Quê quán :  Thành phố Hải Dương                

       Thuộc dòng họ Vương Khuê Liễu - Tân Hưng - Thành phố Hải Dương                                                                  Đơn vị công tác: Ban Nội chính Trung ương Đảng

Quá trình công tác : Nhập ngũ 1982 đi bồ đội đén năm 1985 chuyến sang công an . Cho đến năm 2012 chuyển sang Ban Nội Chính Trung Ương . Đến năm 2017 lại trở về Bộ Công an , Quân Hàm : Thương tá . 38 Tuổi Đảng . Huân chương kháng chiến hạng Nhất ,1 hạng Nhì , 1 hạng Ba . 1 Huy chương vì thế hệ trẻ  .

                             Điện thoại : 0911 911 041

                       Gmail: [email protected]

                          Trình độ đào tạo: Cử nhân

                       Chức vụ : Phó trưởng ban biên tập Báo nhân dân

 

2.Vương Dung - Ca sỹ - Giair nhất Sao Mai

 

                                             VƯƠNG DUNG

                                   CA SỸ – GIẢI NHẤT SAO MAI

                                                      Hải Dương

                                            Sinh năm:  1984

                                Quê quán :     Hải Dương

                            Thuộc dòng họ Vương Hải Dương

Vương Dung tên đầy đủ là Vương Thị Dung, sinh năm 1984 ở Hải Dương. Cô đã học thanh nhạc tại Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam. Vương Dung đoạt giải nhất tại Sao Mai năm 2005. Sau một thời gian hoạt động âm nhạc ở Việt Nam, Vương Dung đi du học ở Mỹ năm 2011. Vương Dung có tham gia hoạt động âm nhạc ở Mỹ, và lấy tên là Vương Dzung. Cô tham gia cuộc thi âm nhạc ‘Giọng ca vàng 2012’ của cộng đồng âm nhạc Việt Nam và giành giải nhất.

Các ca khúc do Vương Dung trình bày (4)

Thành phố miền Quan họ

Sáng tác: Nguyễn Cường Trình bày: Vương Dung

37 lượt nghe 6 lượt tải Đăng ngày: 01/08/2018

Trái cam mặt trời

Sáng tác: Nguyễn Cường Trình bày: Vương Dung

15 lượt nghe 4 lượt tải Đăng ngày: 01/08/2018

Về với biển

Sáng tác: Thúy Hạnh Trình bày: Vương Dung

  • lượt nghe183 lượt tảiĐăng ngày: 02/04/2011

Về với biển

Sáng tác: Thúy Hạnh Trình bày: Vương Dung

1.615 lượt nghe 152 lượt tải Đăng ngày: 02/04/2011

Giải nhất Sao Mai Vương Dung giờ ở đâu?

Ngày 16/04/2013 17:40 PM (GMT+7)

 

Nghệ sĩ nổi tiếng một thời

Cô đã sang Mỹ 3 năm để học tập, thỉnh thoảng vẫn tham gia ca hát.

Trong cuộc thi Sao Mai dòng nhạc nhẹ năm 2005, Vương Dung - cô gái đến từ Hải Dương, dù không có nhan sắc "chim sa cá lặn" như Phương Linh và Ngọc Anh như

nhờ giọng hát giầu nội lực và kĩ thuật đã "đánh bại" hai ứng cử viên nặng ký để giành giải Nhất.

Tuy nhiên, khác với hai đàn chị, sau khi thành danh khá nổi tiếng ở Việt Nam, Vương Dung lại mờ nhạt. Cô ra được hai album Trái cam mặt trời và sau đó là Dzung - album nhạc Pop với phong cách âm hưởng ngũ cung nhưng được hòa âm phối khí hiện đại.

Bẵng đi một thời gian, sau hai album, khán giả thấy Vương Dung "mất tích" trên sân khấu trong nước, hầu như không có bất kì một bài báo nào nói về cô từ đó đến nay.Mới đây, trong cuộc thi của một trung tâm ca nhạc tại hải ngoại, khán giả bất ngờ khi thấy Vương Dung tham gia. Vẫn giữ tên cũ, nhưng ở Mỹ cô là Vương Dzung. Chọn ca khúc trữ tình Em còn nợ anh - khác với dòng nhạc dân gian đương đại trước kia, tuy nhiên, ngoại hình và phong cách thì vẫn là Vương Dung ngày xưa không hề trộn lẫn. Nhìn cô khán giả hơi liên tưởng đến nữ danh ca Khánh Hà nổi tiếng ở hải ngoại.

 

  1. Vương Ngọc Hồi - Họa sỹ

 

                                                VƯƠNG NGỌC HỒI

                                                          HỌA SỸ

                                     Khuê Liễu, Tân Hưng, Hải Dương

                                                  Sinh năm :   1949                    

                     Quê quán       Khuê Liễu, Tân Hưng, Hải Dương

                   Thuộc dòng họ Vương       Khuê Liễu, Tân Hưng, Hải Dương 

                                  Đơn vị công tác:  Sở Văn hóa Thể thao và Gu Lịch Hải Phòng

                         Trình độ đào tạo: Đại học Mỹ Thuật, tốt nghiepj năm 1974

 

 

VIII. THANH HÓA

  1. Vương Huy Hiền - Bác sỹ

 

                                       VƯƠNG HUY HIỀN

                   BÁC SỸ PHỤC VỤ CỐ TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẪN

                                         Quảng Xương, Thanh Hóa

                                                 Sinh năm:  1940  
                     Quê quán :    Quảng Văn, Quảng Xương, Thanh Hóa

              Thuộc dòng họ Vương :Quảng Văn, Quảng Xương, Thanh Hóa

Vương Huy Hiền là bác sỹ chuyên khoa tim mạch, người trực tiếp chăm sóc khám chữa bệnh cho Cố Tổng bí thư Lê Duẫn.

Hiện tại ông đang chăm sóc và chũa bệnh cho các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà Nước đã nghỉ hưu tại Hà Nội.

 

  1. NGHỆ AN
  2. Vương Trọng – Đại tá – Nhà Thơ

 

                                          VƯƠNG TRỌNG

                                             ĐẠI TÁ – NHÀ THƠ                                                

                                                        Hà Nội

                   Nhà thơ Vương Trọng tên thật là Vương Đình Trọng,

                                                 Sinh năm 1943

                        Quê quán: Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An

           Ông thược dòng họ Vương Đình Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An

                  Hiện cư trú tại :  Số nhà 36, ngõ 8, phố Hoa Lư, Hà Nội

Điện thoại : 0912 179493

Gmail: [email protected]

  Tên khai sinh là Vương Đình Trọng. Bút danh khác : Thảo Dân, Dương Nguyên, Đồ Nghệ ...

Thuở nhỏ đã nổi tiếng học giỏi , thông minh. Hoàn cảnh gia đình có nhiều khó khăn. Thành thạo việc làm ruộng cấy cày từ nhỏ.

Năm 1965, Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Toán và nhập ngũ.Giáo viên giảng dạy tại trường Văn hoá Quân đội.Năm 1972 được cử đi học Trường Bồi dưỡng những người viết văn trẻ của Hội nhà văn Việt nam (Khoá 5) và từ đó về làm cán bộ biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội cho đến lúc nghỉ hưu (2008)

    Đại tá QĐNDVN. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Kiều học Việt Nam... Có nhiều tác phẩm có tiếng vang và ảnh hưởng đời sống chính trị xã hội ( Chị dâu, Bên mộ cụ Nguyễn Du, Lời thỉnh cầu ở Ngã ba Đồng Lộc, Hai chị em , Thương binh trại Tân Kỳ kêu cứu,…)    Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật ( đợt 2,năm 2007). Giải thưởng cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969 . Hai lần giải thưởng   Hội Nhà văn Việt Nam ( 1993,1996 ). Nhiều lần giải thưởng Bộ Quốc phòng ( 1989, 1994,2005,2010 ). Đã in hơn 40 đầu sách, bao gồm 21 tập thơ,trường ca và các tập truyện, ký, văn thơ dịch ,Nghiên cứu , phê bình văn học. Tác phẩm chính : Thơ người ra trận ( tập thơ, in chung, 1972) Khoảng trời quê hương ( tập thơ,1979),Những ngày xa ( tập thơ,1986),Về thôi nàng vọng phu (tập thơ,1991), Đảo chìm (trường ca,1994), Ngoảnh lại ( thơ tuyển, 2001) )Hồn quê (tập truyện,1994)Năm ngắn ngày dài (tập thơ,2005), Gửi người đi ngắm tuyêt ( tập thơ, 2018)Vầng sáng hoả châu và bắp chân trần con gái ( chân dung và giai thoại văn học,2011), Thơ chữ Hán Nguyễn Du ( dịch, 2008 ) Truyện Kiều-Nguyễn Du : Ở trong còn lắm điều hay ( Nghiên cứu-Phê bình, 2018) cùng nhiều tác phẩm,  bài viết khác...

Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất và nhiều huân ,huy chương khác,

           Nhà thơ vương trọng - Thổn thức nhịp quê

 Tôi chỉ kịp gặp nhà thơ Vương Trọng trong những giờ phút vội vàng ông nán lại với thành Vinh để chờ đáp tàu đêm về Hà Nội. Ông nói: “Mình vừa ở Đô Lương xuống. Năm nào, dịp này mình cũng về quê giỗ mẹ. Âu cũng là một cái duyên để trở về, để

thắp nén nhang thơm trên bàn thờ tiên tổ, ra mộ mẹ khấn nguyện những điều tận đáy lòng, được bước trên con đường quê và chứng kiến những thay đổi của thôn xóm…”.

Nhà thơ Vương Trọng.

“Xa quê quá nửa đời người mà giọng nói của nhà thơ Vương Trọng vẫn đậm đặc chất Nghệ. Ông không ngừng nói về vùng quê xã Trung Sơn, Đô Lương của mình. Giống như bao mảnh đất khác của Nghệ An, từng nghèo đến xác xơ. Người dân phải chống chọi với cái đói, với thiên tai, bệnh dịch trong vô vàn khó khăn, lam lũ.  

Một ngày năm 1943, trong ngôi nhà nhỏ làng Đông Bích, xã Trung Sơn, mọi người quây quần bên nhau hoan hỉ đón cậu bé Vương Đình Trọng chào đời. Mỗi ngày lớn lên, cậu bé Trọng được đắm mình trong bầu không khí ấm áp của gia đình, trong phong cảnh hữu tình nên thơ của mảnh đất giàu truyền thống xứ Nghệ. Chính mảnh đất thuần nông nghèo khó đó đã nuôi dưỡng tâm hồn Vương Trọng. “Con người chúng ta không ai muốn tuổi thơ nghèo khổ, nhưng ở góc độ nào đó, chính cái nghèo khó của tuổi thơ đã giúp tôi nhiều trong sáng tác. Nó đã găm hồn tôi với quê hương,

và đã khiến cho ký ức của tôi trở nên đậm đặc”, nhà thơ Vương Trọng trầm ngâm nói với tôi. Ông thường trêu hai đứa con ở Hà Nội: “Chúng mày không có tuổi thơ”. Với Vương Trọng, tuổi thơ ông đã đánh thức cái phần sâu sắc nhất, nhân bản nhất trong tiềm thức và trái tim ông – những thứ con người chúng ta có được khi lăn lộn với cuộc sống ở những chiều kích gai góc nhất của nó.

 Sông Lam cách nhà Vương Trọng hơn 1 km, nhưng ngọn Quỳ Sơn thì ngay kia, trong tầm ngắm của cậu bé Trọng hàng ngày. Có lẽ ngày xưa dân nghèo nên núi cũng trọc. Tuy vậy, núi Quỳ đã gắn bó với Vương Trọng như biết bao ngọn núi, con sông quê đã gắn bó với những tâm hồn thi nhân. Bố VươngTrọng là ông đồ nho, các anh trai yêu thơ và hay đọc thơ trong nhà. Bởi thế mà trước khi biết đến thơ trong sách vở, thậm chí là trước khi biết chữ, Vương Trọng đã thuộc nhiều bài thơ từ chính những người thân trong gia đình mình. Ông có biệt tài thuộc thơ rất nhanh, như ông nói “cứ thấy thơ là thuộc”. Từ nhỏ, Vương Trọng đã thuộc “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm khúc”, “Truyện Kiều” – những truyện thơ thuộc hàng dài nhất của thơ Việt Nam trung đại. Trên tất cả, ông tha thiết yêu “Truyện Kiều” như yêu những gì tinh túy nhất của nền văn học Việt Nam từ cổ đến kim. Ông nói: “Đã là người của văn học thì không thể không yêu Truyện Kiều được”. Chính bởi vậy, gần đây trong các cuộc thi tuyển môn văn mà ông được mời làm người ra đề, Vương Trọng nhất thiết đưa “Truyện Kiều” vào làm thước đo cho khả năng và sự cảm thụ văn học.

 Từ năm học lớp 4, Vương Trọng đã biết làm thơ. “Cũng mày mò gửi một vài báo nhưng không được đăng”, nhà thơ kể lại với một nụ cười hóm hỉnh, “Tuy vậy, khi có thư tòa soạn xác nhận đã nhận được bài tác giả gửi, mình thấy vui lắm”. Vương Trọng đọc lại cho tôi nghe bài thơ đầu tiên ông sáng tác, có nhan đề đặc sệt phong cách của các bậc tiền bối: “Vịnh khe Bò Đái”. Đây là kỷ niệm mà Vương Trọng mãi mãi khắc

ghi, bởi nó đánh dấu lần đầu tiên ông sáng tác một bài thơ hoàn chỉnh, diễn tả nỗi lòng ông với quê hương, nơi có khe nước mang cái tên rất dân dã chảy những dòng nhỏ trong vắt mà lũ trẻ con bọn ông ngày trước thường ra tắm.

 Vương Trọng là một học sinh giỏi đều các môn và khi tốt nghiệp phổ thông, ông đã không chọn văn học để bắt đầu sự nghiệp. Năm 1962, Vương Trọng thi đỗ vào Đại học Tổng hợp Hà Nội, khoa Toán. Chính tư duy toán học đã giúp ông có được khả năng khá nổi trội về mặt diễn thuyết với cách nói rành mạch, bố cục rõ ràng, khúc chiết. Song, thơ ca như đã ngấm vào trong máu, Vương Trọng mặc dù không chọn nó nhưng có thể nó đã chọn ông, hay điều gì đấy như là “trời định” vậy. Năm 1966, ông tốt nghiệp đại học, được điều về làm ở Cục Quân báo với công việc thám dịch mật mã của địch. Đến năm 1970, Vương Trọng trở thành giáo viên dạy toán luyện thi đại học ở Trường Văn hóa Bộ Quốc phòng đóng tại Thị xã Lạng Sơn. Rồi 2 năm sau đó, vào năm 1972, ông thực sự gắn bó với văn học bắt đầu bằng việc tham gia học lớp Bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du và công tác cho đến ngày về hưu tại Tạp chí Văn nghệ quân đội.

Vương Trọng kể cho tôi nghe một vài kỷ niệm vui trong quãng thời gian này. Khi ở trong quân đội, ông từng thách cả đơn vị mỗi người nói một từ đơn có nghĩa và nhiệm vụ của ông là đọc một câu thơ có từ đó. Mọi người thi nhau tìm những từ khó nhất, ít nghe đến nhất, nhưng cuối cùng Vương Trọng vẫn tìm được lời giải của mình. “Vốn thơ” trong con người ông như thể vô tận, ông say mê, yêu mến nó, và vui đùa với nó.

 Một lần khác, đó là vào năm 1981, khi đang công tác tại Tạp chí Văn nghệ quân đội, Vương Trọng cùng một số nhà văn, nhà thơ khác như Nguyễn Bùi Vợi, Mai Hồng Niên… được Công ty Vận tải đường sông Nam Định mời về du lịch trên sông. Cả đoàn trải chiếu ngồi trên tàu, nhấm nháp rượu suông và nói chuyện thơ ca. Một cán bộ thi đua của công ty thưa chuyện với đoàn văn sỹ, tỏ ý muốn đọc một bài thơ lục bát 14 câu do anh ta sáng tác. Chỉ 5 phút sau, Vương Trọng đã đọc lại toàn bộ bài thơ đó, không sai một từ. Tất cả mọi người đều kinh ngạc trước trí  nhớ của ông. Kể xong chuyện này cho tôi, ông còn đùa: “Nếu Hội Nhà văn Việt Nam mà tổ chức cuộc thi thuộc thơ thì tôi sẽ đoạt giải nhất”. 

Tuy không có cuộc thi thơ nào như ông nói, Vương Trọng đã đoạt được một số giải thưởng cao quý trong ngành văn học: Giải Ba về thơ của tuần báo Văn nghệ năm 1969, 4 lần đoạt giải thơ của Bộ Quốc phòng, 2 lần đoạt giải của Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1991 và 1996), và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm

2007 với các tập thơ Về thôi nàng Vọng Phu, Đảo chìm, Ngoảnh lại, Mèo đi câu. Thơ của Vương Trọng, như chính con người ông, vừa mạch lạc khúc chiết vừa đằm thắm sâu sắc, vừa hóm hỉnh dí dỏm, vừa lắng đọng thiết tha. Tính đến nay, ông đã xuất bản 26 tập sách cá nhân, trong đó 16 tập thơ và trường ca, còn lại là sách dịch, truyện ngắn, bút ký. Vương Trọng quan niệm: “Thơ là tiếng nói tình cảm. Đổi mới, cách tân mà không ai hiểu thì không nên gọi là thơ”. Theo ông, văn chương đương đại với những trường phái “lạ hóa” thi ca đến mức rối rắm, khó hiểu đang mắc phải những

“ngộ nhận” đáng tiếc. Ông, người yêu đến mê đắm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, không thể dễ dàng chấp nhận những thử nghiệm non nớt và lệch chuẩn như của một số nhà thơ trẻ đang làm, mặc dù lúc nào Vương Trọng cũng ủng hộ mọi nỗ lực cách tân.

 Từ ngày về hưu đến nay, Vương Trọng vẫn dành nhiều thời gian sáng tác thơ, nhưng ông cảm thấy lý thú hơn với việc nghiên cứu. Ông đã và đang thực hiện các công trình dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du, dịch lại “Chinh phụ ngâm” và viết nghiên cứu về “Truyện Kiều”. Mỗi khi có dịp, Vương Trọng lại đáp tàu về Vinh, nếu nhiều thời gian thì nán lại thành phố gặp gỡ bạn bè, còn không thì bắt xe về Đô Lương, nơi ông gửi trọn cả hồn mình ở đó. Ông nói, người trẻ nhiều kẻ tự hào khoe về việc đi xa của mình, càng xa càng tốt, song người già thì lại mong muốn được về quê, càng nhiều ,càng tốt. Giờ đây về Đô Lương, Vương Trọng thấy vui vì quê hương đổi mới. Không còn nhiều mái đình, mái chùa, không còn những đường cong của “làng tôi nhỏ, lối vào làng cũng nhỏ”, nhưng bù lại là những tòa nhà cao, những con đường thẳng được bê tông hóa. Không còn những ngọn núi trọc mà thay vào là một Quỳ Sơn với những dãy núi xanh rờn màu thông. Người dân không còn đói khổ, thay vì chỉ làm nông nghiệp,

họ đã đi làm thuê, khai thác nhựa thông… Vương Trọng khẽ mỉm cười đọc cho tôi nghe những câu thơ viết ra từ đáy lòng ông, từ nỗi khắc khoải hướng về mảnh đất nơi ông được sinh thành: “Khi mắt tôi khép lại cái nhìn/ Hãy đưa tôi về nơi sinh nở… Núi Quỳ Sơn sẵn dành chỗ tôi nằm/ Hoa ấm lửa, đất nồng hơi than cháy/ Hạnh phúc lắm được nằm xuống đấy/ Dù gió mưa, không biết lạnh bao giờ…”. 

 Tạm biệt nhà thơ Vương Trọng, tôi ra về mà cứ nghĩ mãi về con tàu đêm nay, con tàu sẽ cùng ông trong nỗi nhớ quê da diết. Cũng chỉ là một đêm trong hơn 50 năm xa quê, cũng chỉ là con tàu chở ông ngược ra Bắc về với Thủ đô yêu dấu, cũng là tiếng ầm ì của đường sắt, tiếng còi hú quen thuộc đến nao lòng. Thì nỗi nhớ, nó cũng chỉ là một vần nhịp trong vô vàn cung bậc cảm xúc của con người, nhưng với ông, nó là điệp khúc thổn thức và ngọt ngào nhất giúp ông sống và làm việc, giúp ông cảm thấy mình giàu có và tràn đầy năng lượng, giúp ông thấy mình lại khát khao và hy vọng dâng trào.


Các tác phẩm:
- Thơ người ra trận (1972)
- Khoảng trời quê hương (1979)

  • Những ngày xa (1986)
    - Về thôi nàng Vọng phu (1991)
    - Đảo chìm (1994)
    - Hồn quê (1994)
    - Mèo đi câu (1996)
    - Cánh chim Phay Khắt (1983
    - Voi và hổ (1982)
    - Người săn mèo rừng (1990)

 

- Chàng mắt nai (1990)
Giải thưởng văn chương:
- Giải thưởng văn chương Bộ Quốc phòng (1990) với tập thơ Những ngày xa
- Giải thưởng văn chương Bộ Quốc phòng (1994) với tập Đảo chìm

Tác phẩm tiêu biểu

- Bản xua

- Câu hò sông quê

- Chơi cờ thướng ông lão vui tính ở thành phố Điện Biên

- Chú thợ điện

- Em theo thuyền âys

- Gia như ngày ấy

- Giới thiệu

- Làng trong chiêm bao

- Lời giã bạn

- Lời hát trên Sông Đà

- Nam bộ mà anh

- Nhà quê

- Nỗi nhớ sắc màu

- Qua nơi hẹn cũ

- Rau Trường Sa

- Tam Đảo

- Thê giới còn bao điều mới lạ

- Tự thú

Về thôi nàng Vọng Phu (1991)  

  1. Bác về thăm quê
  2. Bài ca nằm võng
  3. Bên lều chợ
  4. Bên mộ cụ Nguyễn Du
  5. Cảm tử quân
  6. Cây lá đốm
  7. Chị
  8. Chị dâu
  9. Chí Phèo
  10. Chiều Hồ Tây
  11. Có một mùa xuân
  12. Du kích đất Mũi Duy khán
  13. Đà Lạt
  14. Đạm Tiên
  15. Đảo chìm
  16. Đêm xuân
  17. Đi dọc mùa khô
  18. Đoạn thẳng
  19. Đợi em trong hội
  20. Đường về Phum
  21. Em đi
  22. Gánh củi
  23. Gạo và người
  24. Ghi ở Pha Long
  25. Gió
  26. Giới thiệu
  27. Gửi em quê biển
  28. Gửi Sao Băng
  29. Hạ Long
  30. Hai chị em
  31. Hề chèo
  32. Hoa hậu của nhà
  33. Hoa quỳnh
  34. Hội té nước
  35. Khi qua nơi hẹn
  36. Khóc giữa chiêm bao
  37. Không đề
  38. Lạc vào chùa
  39. Lê Dung
  40. Lên Cao Bằng
  41. Lời dặn
  42. Lời người đào huyệt ở nghĩa trang thành phố
  43. Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc
  44. Lời tiễn đưa
  45. Mắt con nhìn
  46. Mẹ Bắc Cạn
  47. Mẹ đồng chim
  48. Mô típ Thuý Vân
  49. Một lần em đến
  50. Một mình
  51. Một trưa Trường Sa
  52. Mưa đêm
  53. Mỵ Châu
  54. Nào, nâng cốc ta uống
  55. Nghe lời mưa Huế
  56. Nghỉ tết ngườ
  57. Nguyễn Công Trứ
  58. Nguyễn Du
  59. Người ấy
  60. Người đẹp và lính biên phòng
  61. Người mài dao
  62. Nhà rông
  63. Nhớ con
  64. Những mắt hoa
  65. Nói với con dâu
  66. Nói với cô gái trên tờ lịch treo tường
  67. Nói với Trương Chi
  68. Núi Quỳ
  69. Ở nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
  70. Phác văn
  71. Qua đèo gió
  72. Qua đèo Pha Đin
  73. Qua đường Năm
  74. Sợi tóc hai màu
  75. Sức mạnh đàn bà
  76. Tà Sanh
  77. Tản mạn về những cánh diều giấy
  78. Tào Mạt
  79. Tắm tất niên
  80. Tết nay anh về phép
  81. Thăm chồng
  82. Thật và giả
  83. Theo cách thông kê
  84. Thị Mầu
  85. Thơ anh mãi mãi là hoa
  86. Thơ tặng ô
  87. Thơ vui tặng bạn nhà thơ
  88. Thơ vui tặng các bà vợ hay ghen
  89. Tiễn chồng
  90. Tiên Dung
  91. Tim ơi
  92. Trái tim anh
  93. Tre ơi
  94. Triết lý khi yêu
  95. Trò chuyện với Vọng Phu
  96. Trong đêm Phòn Thà Khẹt
  97. Trong nhà bảo tàng Nguyễn Du
  98. Trưa Phú Lợi
  99. Trước nguyên sơ k
  100. Tự trào
  101. Tứ tuyệt về cây quả
  102. Với đứa con ngoài giá thú
  103. Xem tranh hứng dừa

Thạch Qùy - Nhà ThơBên mộ cụ Nguyễn Du (Vương Trọng)

Tưởng rằng phận bạc Đạm Tiên,

Ngờ đâu cụ Nguyễn Tiên Điền nằm đây

 Ngẩng trời cao cúi đất dày

Cắn môi tay nắm bàn tay của mình

 Một vùng cồn bãi trống chênh

Cụ cùng thập loại chúng sinh nằm kề

Ngút tầm chẳng cánh hoa lê

Bạch đàn đôi ngọn gió về nỉ non,

 Xạc xào lá cỏ héo hon

Bàn chân cát bụi lối mòn nhỏ nhoi

 Lặng yên bên nấm mộ rồi, /

 Chưa tin mình đã đến nơi mình tìm

Không cành để gọi tiếng chim,

 Không hoa cho bướm mang theo nắng trời

Không vầng  cỏ ấm tay người,

 Nắm hương tảo mộ thắp rồi lại xiêu

 Thanh minh trong những câu Kiều,

 Rưng rưng con đọc với chiều Nghi Xuân

 Cúi đầu tưởng nhớ vĩ nhân,

Bắt phong trần để phong trần riêng ai

 

Bao giờ cây súng rời vai,

 Nung vôi chở đá tượng đài xây lên

Trái tim lớn giữa thiên nhiên,

 Tình yêu nối nhịp suốt nghìn năm xa .

 

                          THẠCH QUỲ - VƯƠNG ĐÌNH HUẤN

                                                           NHÀ THƠ

                                     Trung sơn, Đô  Lương, Nghệ An

                                                       Sinh năm 1941

Quê quán : Thôn Đông Bích, tổng Thuần Trung, huyện Lương Sơn, tỉnh Nghệ An, Nay là thôn Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.

Thân phụ là người thông thạo Hán học, thân mẫu tuy không biết chữ nhưng lại thông thuộc nhiều ca dao, tục ngữ, truyện Kiều...

Từ nhỏ đã nổi tiếng thông minh, học giỏi.                 

Tốt nghiệp khoa Toán Đại học Sư phạm Vinh năm 1962

Nhiều năm là giáo viên Trung học phổ thông , dạy toán ở các trường cấp 3 tại Thanh Chương , Đô Lương I, Tân Kỳ...Từ 1973 chuyển về công tác tại hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Nghệ An cho đến lúc nghỉ hưu.

Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam . Uỷ viên BCH Hội VHNT Nghệ An.

Thông minh , sắc sảo. Ông là một trong những tên tuổi sáng giá của thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và vững bước trên con đường thi ca cho đến bây giờ. Giải thưởng Cuộc thi Thơ Báo Văn nghệ năm 1972; Giải thưởng Nguyễn Du (1985 ), Giải thưởng Hồ Xuân Hương ( 1990, 1995, 2005, 2010...)   về

Văn học Nghệ thuật của tỉnh  và nhiều giải thưởng Văn học khác. Từ  “ Mẹ chồng” là bài thơ đầu tiên in báo Văn nghệ số 51, năm 1963 , đã xuất bản hơn 10 đầu sách. Tác phẩm chính đã in : Sao và Đất ( tập thơ, in chung, 1967 ) Điệu hát, Nguồn sáng và Đất ( tập thơ,in chung, 1979), Tảng đá nhành cây (tập thơ, 1973 ), Con chim tà vặt ( tập thơ, 1986), Nguồn gốc cơn mưa (tập thơ, 1978), Cuối cùng vẫn một mình em (tập thơ,1996 ), Đêm giáng sinh (tập thơ,2004 ), Bức tượng. (tập thơ, 2009), Thơ Thạch Quỳ ( Tuyển tập, 2006 ). Thơ Thạch Quỳ( Tuyển tập 2018 )   Văn chương đàm thoại...

Thơ ông  sắc sảo, giàu cảm xúc , nội dung không ngại đề cập đến những vấn đề gai góc, những bức xúc của đời sống chính trị-xã hội. Hình thức luôn tìm tòi, đổi mới. Bài thơ “ Với con ” ông viết năm 1979 với những suy nghĩ mới mẻ , táo bạo so với đương thời có gây cho ông một số phiền phức nhưng cũng được nhiều người đồng tình chú ý và cảm phục yêu mến cùng với nhiều bài thơ tiêu biểu khác như : Đợi em ngày giáp tết, Gạch vụn thành Vinh, Qua đền Công ghi chuyện cũ, Cô tôi, Cái nghèo, Tôi, Bức tượng...Ngoài thơ ông còn viết nhiều bài Tạp văn, Lý luận phê bình văn học, báo chí...có suy nghĩ và tư tưởng độc đáo.

Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.

Năm 1960, ông học ngành Sư phạm Toán tại trường Đại học Vinh, cùng năm này, ông có bài thơ đầu tiên được đăng trên Văn nghệ quân đội có tựa "Mà thương cũng nhiều”. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông có một thời gian làm giáo viên Toán cấp 3 tại Nghệ An sau đó công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Nghệ An, ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện ông sống ở thành phố Vinh, Nghệ An, Số nhà 228 Phong Đình Cảng, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Giải thưởng

 Ông được nhiều giải thưởng của báo Văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Giải thưởng Hồ Xuân Hương (tỉnh Nghệ An).

Các tập thơ đã xuất bản

  • Sao và đất (1967)
  • Tảng đá nhành cây (năm 1973)
  • Điệu hát nguồn sống và đất (năm 1978).
  • Nguồn gốc cơn mưa (1978)
  • Cuối cùng vẫn một mình em (năm 1986)
  • Đêm Giáng sinh (năm 1990)
  • Bức tường (2009).

Những bài thơ nổi tiếng của ông

  • Với con:

Là tác phẩm ông viết được đăng trên báo Văn nghệ năm 1980 trên trang dành cho thiếu nhi. Bài thơ đã được đón nhận nồng nhiệt nhưng cũng để lại cho ông nhiều tai

tiếng, thậm chí có người nghi ngờ thái độ chính trị của ông qua bài thơ đến nỗi Xuân Diệu phải thay mặt Hội Nhà văn vào Nghệ An giải thích. Bài thơ có những câu như:

Con ơi con, trái đất thì tròn

Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật

Tất cả đấy đều là sự thật

Nhưng cái bánh đa vừng tròn, điều đó thật hơn!

Vì thế những lời cha dặn dò

Cũng chưa hẳn là điều đúng nhất

Cha mong con lớn lên chân thật

 Yêu mọi người như cha đã yêu con

  • Đợi em ngày giáp tết:

Đây là bài thơ viết về tình yêu của ông, có những vần thơ rất đặc sắc

Trời đã tết. Khói xanh mờ bụi nước 

Góc vườn con, hoa mận đã đơm khuy

Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc

Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về

Đánh giá về Thạch Quỳ

- Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ

 (Thái Doãn Hiếu, Thi nhân Việt Nam hiện đại).

- Thạch Quỳ: Ông đồ gàn xứ Nghệ (Võ Văn Trực).

Nhà thơ Thạch Quỳ: Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc

Xứ Nghệ sản sinh vô số nhà thơ nổi tiếng, nhưng chủ yếu thành danh lập nghiệp nơi đất khách quê người. Cả đời chỉ sống bên dòng sông Lam mà vẫn định vị một sự nghiệp thơ như Thạch Quỳ là trường hợp hiếm hoi. Dân văn chương ghé qua Vinh, nếu không hẹn gặp nhà thơ Thạch Quỳ thì e chừng cũng kém lễ độ.

          -    Nhà thơ Thạch Quỳ: Chỉ "gàn" với những gì không thực chất

          -    Nhà thơ Thạch Quỳ: Ông đồ gàn xứ Nghệ

Nhà thơ Thạch Quỳ, vóc dáng khắc khổ và khí phách ngang tàng quen thuộc. Những câu chuyện không đầu không cuối, cũng đủ để xác tín con người Thạch Quỳ và tác phẩm Thạch Quỳ là một thể thống nhất: lầm lũi, chân thành và sắc sảo!

Nhà thơ Thạch Quỳ sinh trưởng trong dòng họ Vương có truyền thống hiếu học ở Đô Lương (Nghệ An). Từ tên thật Vương Đình Huấn, ông bước vào làng thơ bằng bút danh Thạch Quỳ vì muốn làm một hòn đá trên núi Quỳ quê hương.

Như một cách tự giới thiệu, nhà thơ Thạch Quỳ từng viết một bài thơ miêu tả tỉ mỉ:

 “    Núi Quỳ bé mà sao nhiều đá thế/

       Tuổi chăn bò hốc đá trú mưa

       Hoa chổi rụng dưới cánh ong bò vẽ

       Đá trắng phơi đầy trời nắng trưa

       Em cắt củi chưa đầy đôi lạt buộc/

       Đã ngồi nghiêng trên đá, tím môi sim”.

Có lẽ, chính sự im lặng của đá và sự nhẫn nại của đá, đã dạy Thạch Quỳ làm thơ. Chứ thời đi học, nhà thơ Thạch Quỳ vốn giỏi toán. Sau khi tốt nghiệp Đại học Vinh, thầy giáo Vương Đình Huấn cũng có đến 11 năm dạy toán ở trường trung học trước khi chuyển qua công tác ở Hội Văn nghệ, rồi đùng đùng bỏ đi... cuốc nương canh rẫy. Bây giờ, nhà thơ Thạch Quỳ đã 77 tuổi, chả làm gì nữa, nhưng cái tính gàn vẫn y nguyên.

Nhà thơ Thạch Quỳ được xếp vào thế hệ cầm bút chống Mỹ. Dấu vết thi ca phục vụ chiến đấu và sản xuất còn lưu lại trong nhiều bài thơ Thạch Quỳ có tên gọi như một

bản tin thời sự, như Bài hát của những người nhổ cỏ năng cỏ lác ở vùng đồng chiêm trũng hoặc Mừng hợp tác xã Nhân Hòa trừ xong nạn sâu keo sau lụt.

Kiểu viết thật thà ấy, mỗi ngày được chưng cất tinh tế hơn, và trở thành phong cách thơ Thạch Quỳ. Ví dụ, bài thơTiễn em trai đi vào, tiễn em gái đi ra bật lên hai câu thật đáng nhớ:

        Chúng tôi ngồi yên lặng dưới hàng cây

           Dưới cao vợi, sao dày như nếp nổ”.

Lối liên tưởng “sao dày như nếp nổ” rất dân dã và cũng rất bất ngờ. Lối liên tưởng này còn giúp Thạch Quỳ nhìn Trâu đi qua tuyến lửa khá đặc trưng:

         Chân sưng húp hãy còn móng cứng

           Vượt trưa nắng đèo Ngang dốc dựng

           Xuống hố bom đầm nước lút mình

           Đỉnh sừng nhô hai hạt nếp trắng tinh”.

Khác với những bạn bè cầm bút đồng trang lứa đã rời xa nơi chôn nhau, cắt rốn rồi ngoảnh lại mây trắng Hồng Lĩnh mà bồi hồi viết bao lời tha thiết, nhà thơ Thạch Quỳ sống tận tụy với xứ Nghệ và nhận diện được từng vẻ đẹp cồn cào của xứ Nghệ.

Ông không chỉ phác họa Đất Đô Lương trầm tích nắng mưa:

       Vực Cóc đây thăm thẳm một hang trời

          Bè nứa chui vào ngỡ đi về xứ khác

           Nhớ lúa Ba Ra mỉm miệng cười

                   Trắng xóa muôn nghìn thác bạc”

 Mà ông còn phát hiện Con chim tà vặt độc đáo chốn mình dung thân bằng cái nhìn thật chi tiết:

                   “ Giữa núi trọc, đồi hoang

                     Có con chim tà vặt/ Mỏ đỏ như than hồng

                      Ngồi thu lu trên đá/ Khi ngồi thì mình đen

                      Bay lên, cánh trắng lóa

                      Đồi tiếp đồi, không cây

                      Chỉ sim cằn và cỏ

                      Chim quen đậu trên đá

                      Chân khô như củi gầy...”.

Hơn nữa, cái vốn sống nông thôn dồi dào khiến ông có thể Hóng gió trên cánh đồng làng chan hòa với thiên nhiên:

         Nước trong veo, con cá quả no mồi

           Lượn đủng đỉnh chào thăm từng gốc lú

           Con cá ngửi vết chân bùn bỡ ngỡ

           Nổi mắt tròn ngơ ngác, nhận ra tôi

Và có thể thấu hiểu nỗi cơ cực của những người làm ruộng: 

           “Nhổ lác, nhổ từng cây

              Nhổ năn, măn từng rễ

              Nước teo da bàn tay

              Bắp chân bầm máu đỉa

              Lưng cúi gập suốt ngày

              Ngửng lên, nghe nặng mặt

               Cúi xuống, vòng nước xoay”.

Thơ Thạch Quỳ không nhiều câu chữ bay bổng. Ông chủ trương bám lấy hiện thực, tắm trong hiện thực mà lặn ngụp sáng tác. Thỉnh thoảng, Thạch Quỳ mới có những vần điệu đắm đuối như: 

                 “Trời đã Tết, khói xanh mờ bụi nước

          Góc vườn em hoa mận đã đơm khuy

          Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc

         Cỏ thiên thanh hoa trắng đợi em về

 hoặc như

            Anh yêu em anh phạm lỗi thường tìn

             Khó thức ngủ theo giấc giờ điều độ

            Có một nửa đang đi tìm một nửa

            Như vầng trăng ngoài cửa, phía trời xa”.

Và thỉnh thoảng, Thạch Quỳ mới có những phút giây cao giọng ngoa ngôn như: 

            “  Anh yêu em hơn thần thánh yêu nhau

                Một khẽ chạm tay rung toàn thân thể

               Và bởi vậy, tình yêu trần thế

                Đủ để thánh thần mơ ước trên cao”.

 Tuy nhiên, những khoảnh khắc lãng mạn của Thạch Quỳ không thể so được với những khoảnh khắc suy tư của Thạch Quỳ. Nói cách khác, thơ Thạch Quỳ là thứ thơ chiêm nghiệm.

Nhà thơ Thạch Quỳ ít phô diễn sự hào hoa. Ông làm thơ theo phương pháp quan sát và tìm tòi, lập ý rồi lập tứ. Đôi khi những câu thơ của ông kém mềm mại nhưng đầy biểu cảm:

 

                      Đất nơi đây đào nơi nào cũng đỏ

                        Đập đá ra có ánh lửa ngời”.

Bỏ qua nhạc tính của thơ, Thạch Quỳ trọng nghĩa của chữ hơn trọng âm của chữ. 

Ông nhìn vào sự vật rồi ông nhìn vào lòng mình, để những câu thơ gân guốc tượng hình một quan niệm thẩm mỹ:

                       Có mùi mật trong hoa

                         Điều đó chú ong vàng cũng biết

                         Có hương thơm ẩn giữa sắc màu

                         Cái chuyện này, bướm tím biết từ lâu

                         Nhưng bạn ạ, hương trầm trong gỗ mục

                          Thì ong vàng, bướm tím có hay đâu...”.

Nhà thơ Thạch Quỳ luôn thao thức với thơ. Ông liên tục làm mới thơ mình bằng cách nhúng bút vào nhiều thể loại khác nhau. Thế nhưng, khi Thạch Quỳ nỗ lực viết những câu thật nghiêng ngả, thật say sưa thì thơ lục bát của ông cũng chỉ dừng ở mức thường thường bậc trung.

Chẳng hạn     “Bây chừ gõ chén sông Hương/

                        Lanh canh phách nhịp bốn phương cung đình

                       Một suông trăng ở Hoàng Thành

                        Một trăng suông nhạt chòng chành dưới sông

 hoặc

                “Dĩ nhiên cỏ mọc lên rồi

                  Dấu chân cỏ lấp nụ cười vẫn nguyên/

                  Con đường như lạ như quen

                  Nhớ em nhớ lúa, thương em thương đồng”.

Thạch Quỳ chỉ là Thạch Quỳ khi ông dằn vặt trong những suy nghĩ ngổn ngang của chính mình trước cuộc sống, trước thế tục, trước nhân quần. Thạch Quỳ suy nghĩ về những cuốn sách vẫn nằm im trong bụi phủ tháng năm:

                 “Điều tôi biết, người xưa đã biết               

                   Cuộc phù du ớn lạnh ở da mình

                   Em trong sạch và anh tinh khiết

                   Muốn vào đời/ Không có giấy khai sinh”.

Rồi Thạch Quỳ suy nghĩ về những oan khuất lịch sử

       : “Dưới tảng đá này người đã ghìm cương

            Và nhận thấy móng rùa thật, giả

            Màu lông ngỗng ngây thơ trong trắng quá

            Nên máu người phải đổ Mỵ Châu ơi...

            Ở đền Công con nghê đá không cười

             Màu ngói đỏ như màu của máu

             Con trai ngọc ôm khối hồng đau đáu

             Nghìn năm rồi nước mắt rửa không tan

              Dưới rừng thông xanh biếc của thời gian

              Trưa nay nắng, tôi về thăm dấu cũ

              Vệt máu ngỡ khô rồi trên kiếm gỗ

              Bỗng sáng lên như nói một điều gì...”.

Và Thạch Quỳ suy nghĩ về những số phận từ trắc ẩn riêng tư:

         Tôi một nửa nam mô, một nửa A men

           Một phía ngóng trời, một phần ngóng đất/

           Thân thể tôi như chiếc cột ăng ten

           Vừa phát sóng vừa tự mình gỉ sét

           Điều tôi nói chừng chúa trời chưa biết      

            Phật chưa tin và trời cứ làm thinh

           Tôi nhỏ nhoi tồn tại chính mình

           Nhân danh một chính mình tồn tại

           Sân chùa cứ rụng đầy hoa đại

            Thánh giá cao chót vót tận vòm mây  

              Tôi vẫn đi lầm lụi giữa xuân này/

               Mưa bụi thấm lông tơ đầy mặt áo”.

Có một dạo tên tuổi Thạch Quỳ được đồn thổi rất nhiều vì vướng vào một nghi án “chính trị hóa thi ca”. Bài thơ Với con của ông in trên Báo Văn nghệ năm 1979, bị hiểu nhầm có nội dung xấu. 

Thực chất, chỉ là cách thổ lộ bộc trực:

         “Con ơi con thức dậy giữa ngày thường

           Nghe chim hót đừng nghe mê mải quá          

           Qua đường đất đến con đường sỏi đá

           Cha e con đến lớp muộn giờ”. 

Tấm lòng của người cha với đứa con, không chỉ được Thạch Quỳ phản ánh trong thơ, mà còn thể hiện ngay ở hành động

Năm 1988, được sang tập huấn ba tháng tại Học viện Gorki, nhà thơ Thạch Quỳ đã một mình từ Mátxcơva lặn lội gần 4.000 cây số đến tận vùng tuyết trắng Siberia để thăm đứa con đang hợp tác lao động tại đây. Không biết tiếng Nga, nhưng vì tình thương con, Thạch Quỳ vẫn leo lên tàu lửa với một cuốn sổ ghi những thông tin cần thiết về bản thân và về mục đích chuyến đi. 

Cuốn sổ ấy, Thạch Quỳ gọi là “sổ ăn mày”, một bên ghi tiếng Việt và một bên ghi tiếng Nga, có nhu cầu gì thì Thạch Quỳ di ngón tay từ câu tiếng Việt sang câu tiếng Nga để hỏi thăm người xung quanh. Phiêu lưu quá, mạo hiểm quá.

Vậy mà, kỳ lạ thay, Thạch Quỳ vẫn thực hiện trót lọt hành trình xuyên nước Nga rộng lớn. Bí quyết là gì? Thạch Quỳ bảo, nhờ ông xưng danh là nhà thơ Việt Nam, nên người ta cho ăn, cho uống và hướng dẫn chu đáo. 

Thạch Quỳ trổ tài đọc thơ bằng tiếng Việt cho người Nga thưởng thức, với điệu bộ mô phỏng y hệt Mayakovsky, nghĩa là cũng ngửa mặt, nhắm mắt, vung tay lên hạ tay xuống, bước chân tới bước chân lui...

Năm 1991, bài thơ Với con được in lại trên Báo Nhân dân, xóa tan mọi hiềm khích mà người ta cố gán ghép cho Thạch Quỳ:           

              Con ơi con, trái đất thì tròn

              Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật

               Tất cả đấy đều là sự thật

               Nhưng cái bánh đa tròn, điều đó thật hơn

               Mẹ hát lời cây lúa để ru con

               Cha cày đất để làm nên hạt gạo

               Chú bộ đội ngồi trên mâm pháo

              Bác công nhân quai búa, quạt lò

              Vì thế nên, lời cha dặn dò

             Cũng chưa hẳn đã là điều đúng nhất

             Cha mong con lớn lên chân thật

             Yêu mọi người như cha đã yêu con”.

Ông đồ gàn xứ Nghệ - Thạch Quỳ hôm nay vẫn ốm nhom và vẫn mẫn cảm

          Giữa cuộc đời lẫn lộn cả buồn vui

             Tiếng chim cũng tiếng lành tiếng dữ”. 

 Thạch Quỳ sống trọn vẹn với thơ, tự tin và tự trọng:

            “Ta bát ngát thôn quê, từ làng đến phố

              Và sống ở ngôi nhà không cửa sổ

              Bốn tường kia cửa bít kín mất rồi

              Lối đi về ta mở. Tự ta thôi!”

 

  1. Vương Cường – Tiến sỹ - Nhà Thơ

 

                                                 VƯƠNG CƯỜNG

                                                   TIẾN SỸ -  NHÀ THƠ

                                       Đông Bích, Trung Sơn, đô Lương, Nghệ An

                                                          Sinh năm : 1949

                    Quê quán : Đông Bích, Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An.

          Thuộc dòng họ Vương Đình Đông Bích, Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An

     Nhà thơ Vương Cường tham gia chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ Quảng Trị, 1972, các chiến dịch mùa xuân 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn 1975. Tiến sỹ Kinh tế. Nguyên cán bộ quản lý, nghiên cứu, giảng dạy tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Hội viên Hội

Nhà văn Việt Nam.

Tuổi nhỏ ở làng. Năm lớp 8 chuyển đến ở với Chú (ông Hiếu ) học Cấp 3 tại Tân Kỳ.Năm 1968 tốt nghiệp phổ thông và vào Đại học Xây dựng Hà Nội.

Ông là Bộ đội kháng chiến chống Mỹ. Nhập ngũ năm 1971. Chiến đấu và bị thương tại chiến trường Quảng Trị năm 1972. Năm 1976 xuất ngũ và trở lại trường Đại học.

Tốt nghiệp Đại học Xây dựng, Đại học Kinh tế .Năm 1991 nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế  Sau nhiều năm làm Cán bộ giảng dạy tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội ông chuyển đến làm Cán bộ giảng dạy rồi Vụ trưởng Vụ Đào tạo sau đại học Học viên Chính trị -Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh cho đến lúc nghỉ hưu, năm 2015.

Thông minh, năng động, có năng khiếu sáng tác thơ và lý luận, phê bình văn học.

Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội ( 2014). Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (2017)

Đã in :  Bài hát đi tìm một người ( tập thơ,1997), Đám mây hình thiếu phụ (tập thơ, 2010 ) . Canh chừng lãng quên ( Tập thơ, 2016), Thơ chọn ( Tập thơ chung với Đoàn Xuân Hòa, 2018) Đưa tay ra vẫy vào vô tận...( tập lý luận phê bình Văn học ) . Đô thị hóa ( Tập nghiên cứu kinh tế- chính trị xã hội , 2015 ) và nhiều công trình nghiên cứu về các vấn đề chính trị, xã hội  in trên các báo và tạp chí.

 

Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì.


Các tập thơ đã xuất bản:

-  Bài hát đi tìm một người, tập thơ, NXB Văn hóa - Thông tin, H.1997
- Đám mây hình thiếu phụ, tập thơ, NXB Văn học, H. 2010
- Canh chừng lãng quên, tập thơ, NXB Hội nhà văn, H.2017

Sắp in: Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận (tập nghiên cứu lý luận thơ).

NBĐ xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc chùm thơ đầu tiên của nhà thơ Vương Cường cộng tác với Người Bạn Đường
 
Vương Cường- người 'bị thơ ám'

 (Baonghean) – 'Nếu có thể bỏ được thơ, tôi đã bỏ thơ từ rất lâu rồi. Nhưng đó là việc không thể. Có thể nói, tôi bị thơ ám'

Nhà thơ Vương Cường mới được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2017. Nhiều người nói vui, ông bị Hội Nhà văn bỏ quên (bởi thơ ông viết từ rất sớm, có nhiều bài rất hay thậm chí được đánh giá ít có người viết hơn ông ở mảng thơ hậu chiến) cũng như kiểu ông đã bị chìm lấp dưới cái bóng quá lớn của anh trai mình: nhà thơ Thạch Quỳ.

Vương Cường cười xòa… Ông nói, với thơ, chẳng có cái bóng nào trùm được lên bóng nào, nhà thơ phải tự làm một hành trình đơn độc, sáng tạo riêng biệt, khác biệt.

Nó là thiên bẩm, là nhu cầu, hối thúc tự thân. Và nếu có thể bỏ được thơ, ông đã bỏ thơ từ rất lâu rồi. Nhưng đó là việc không thể. “Có thể nói, tôi bị thơ ám”

“Xưa, người quê tôi, gặp nhau chỉ nói chuyện thơ văn”

Sinh năm 1949, quê làng Đông Bích,  xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, nhà thơ Vương Cường là em ruột của nhà thơ Thạch Quỳ (Vương Đình Huấn), cháu của nhà thơ Vương Trọng.

Ông tự hào với dòng họ Vương nổi tiếng của mình, dòng họ có đến 3 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, và ngoài ra, người làm thơ, làm văn thì “nhiều vô kể”, ra được hẳn một tập thơ dầy dặn và chất lượng của những cây bút trong dòng họ.

Vương Cường cũng tự hào về làng quê của mình, ngôi làng có ngọn núi Quỳ với vô vàn đá và hoa dại, mà tên ngọn núi ấy trở thành  bút danh của nhà thơ nổi tiếng xứ Nghệ.

Vương Cường kể rằng, những ngày xưa ấy, ở làng ông, và trong họ Vương của ông, người ta hay nói chuyện văn thơ. “Mở mắt ra là nói chuyện văn chương rồi. Mà cái

dòng họ tôi lạ lắm, gặp nhau nói toàn chuyện thơ phú, chứ tôi nhớ tuyệt không thấy nói chuyện làm ăn. Cũng có thể vì họ đã quanh năm suốt tháng lo làm ăn trên đồng ruộng, hay đi làm nơi phương xa rồi, nên gặp nhau thì muốn nói những chuyện cao quý hơn chăng?”

Rồi ông tiếp: “Tôi còn nhớ mãi những đêm văn nghệ ở làng xưa ấy, người ta đọc thơ, diễn kịch chúng tôi nghe không muốn rời dù tôi còn nhỏ lắm. Ngày ấy có cả các nhà thơ lớn trung ương về đọc thơ trên sân khấu làng.

Đọc xong là tôi đã gần như nhớ hết. Tất cả những bài thơ mới tôi thuộc được, không phải qua sách vở, vì ngày ấy sách vở đâu có dạy thơ mới, tôi thuộc nhờ nghe lỏm các chú, các anh tôi nói chuyện, đọc thơ cho nhau nghe.

 Cả bài thơ “Quê mẹ” của Tố Hữu, tôi cũng thuộc từ giọng đọc chú Vương Trâm nhà tôi. Cho tới giờ, trong tâm trí tôi vẫn nhớ cái âm hưởng ấy, cái màu nắng, khoảng vườn mướt xanh hôm ấy, nỗi bàng hoàng của cậu bé mười mấy tuổi khi chạm đến những rung cảm của thơ ca”.

Vương Cường còn một điều để tự hào nữa, là ông được sinh ra, được nuôi lớn bởi những người phụ nữ “tuyệt vời nhất thế gian”. Đó là bà và mẹ. Những người đã truyền cho ông tình yêu, cho ông học được bao nhiêu ứng xử với cuộc đời, cho ông sự trân trọng với cuộc đời và con người.

Nếu như bà ông đã luôn kể cho ông nghe không hề mệt mỏi qua tháng ngày những câu chuyện xưa thì mẹ ông lại cho ông biết những câu chuyện của ngày nay. Mẹ ông là người không biết chữ, nhưng sống sâu sắc, tinh tế thì “ít người phụ nữ nào bì kịp”.

Bà chưa bao giờ nói với con một câu nặng lời. “Khôn thì nói xa, dại thì nói gần”, ấy là phương châm sống, cũng là phương châm dạy con của người phụ nữ làng Đông Bích ấy. Có thể, sự chín chắn, sâu sắc của bà mẹ này đã ít nhiều ảnh hưởng tới tính cách cũng như dấu ấn văn chương những người con của bà chăng?

Người “mót hồn quê”

 Chính vẻ đẹp quê hương và người quê đã trở thành nỗi nhớ, niềm thương đóng đinh trong tâm hồn những nhà thơ làng Đông Bích. Với nhà thơ Thạch Quỳ, có người đã từng nói ông “yêu quê đến câu nệ, đến cố chấp”, và ông đã chọn đất quê để gắn bó cả đời dù cơ hội để xê dịch với ông là vô cùng rộng mở.

Với Vương Cường, dù là mấy chục năm xa quê, thì tình yêu của ông với quê còn có phần “cực đoan” hơn nữa.

Vương Cường kể rằng, không hiểu sao, như thể là máu thịt của mình vậy, ông yêu từng gốc cây, bờ đê của làng. Khi học lớp 8, ông phải chuyển học tại Thanh Chương, phải xa quê vài ngày mỗi tuần, nỗi nhớ làng quê khiến ông ngơ ngẩn.

“Tôi như kẻ bị cuồng chân. Làm gì, đi đâu thì tâm hồn mình cũng muốn bay về nơi ấy. Mỗi lần về, từ xa, thấy khóm tre làng Đông Bích là ông như muốn run lên, nấc nghẹn”.

Trên facebook của ông, tôi đọc được khá nhiều câu chuyện làng quê trong nối nhớ của Vương Cường. Trong đó, có một mẩu chuyện tôi đặc biệt thích thú, ông kể với “người bạn thuở thiếu thời” là ông Lạn, người chăn trâu ở quê năm nay đã 99 tuổi :

“Thực ra, người ấy là bạn chăn trâu của hầu hết người làng mình. Những ai trong độ tuổi từ 10 đến gần 100 hôm nay đều là bạn của ông. Mình là bạn ông từ những năm cuối thập niên 50 đến giữa 60. Khi ấy, mình đang ở làng. Sau do học xa và chiến tranh nên tạm thời không được chăn trâu cùng ông. Còn ông thì vẫn chăn trâu hoặc chăn bò cùng với các bạn khác với nhiều lứa tuổi khác nhau.

Tuy xa nhau đến ngót nửa thế kỷ, nhưng khi gặp lại thì chuyện chăn trâu, chăn bò giữa “bọn mình” vẫn là chủ đề chính, lúc nào cũng sôi nổi. Ông kể những lần cùng nhau dắt trâu ăn kẹ, có người canh chừng hẳn hoi. Bọn mình cho trâu ăn ở vùng cấm Cơn Pheo, công an phục, bò trong bùn bàu Bưởi, phủ cỏ trên đầu chỉ còn con mắt, như đặc công…”.

Chính vì yêu đến hết lòng mà Vương Cường không nguôi nuối tiếc khi hồn quê đến giờ ngày càng…bay xa. Ông xót xa vì sự “mất quê”. Mà “quê tạo ra cái đẹp, bớt đi những vô cảm, bớt ác độc”.

 Rồi ông liên tưởng: “Người độc ác không làm văn chương được. Văn chương không chấp nhận những người ác. Việc giữ gìn tâm hồn, vì thế quan trọng lắm”. Và ông tự nhận mình là người đi mót, đi nhặt nhạnh những gì còn lại để vun đắp lại cho mình cái “hồn quê” còn vương lại đâu đấy.

“Canh chừng lãng quên”

 “Canh chừng lãng quên” là tên tập thơ được xuất bản năm 2016 của Vương Cường. Nó cũng nói lên phần nào “phẩm chất” của người thơ này. Vương Cường có một mảng thơ rất quan trọng, đặc biệt, là thơ thời chiến và hậu chiến

Bìa tập thơ Canh chừng lãng quên của nhà thơ Vương Cường.Ảnh: P.V

 

Năm 19 tuổi, Vương Cường vào  Đại học Xây dựng và năm 23 tuổi ông vào bộ đội, chiến đấu 81 ngày đêm ở Thành Cổ Quảng Trị, sau đó tiến đến giải phóng Miền Nam, cho đến hết chiến tranh, ông trở về học lại Đại học Xây dựng năm 1976.

Đến năm 1979, ông theo học Trường Tuyên huấn Trung ương, đến 1987 ông làm nghiên cứu sinh tại Học viện Chính trị rồi làm cán bộ giảng dạy, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý Khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia HCM.

Có cả một quãng dài trên những chiến trường ác liệt, nên Vương Cường viết rất hay, rất thấm về người lính. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, trong lời tựa của tập thơ “Canh chừng lãng quên” của Vương Cường đã viết rằng:

Không ai giao cho anh cái gánh nặng vết thương lòng, nhưng Vương Cường đã tự nguyện mang vác nó cho tới ngày chung cuộc. Thơ anh đầy ắp những vết thương chiến tranh, dù cỏ đã phủ xanh, anh vẫn không thể quên “những tiếng cười rỏ máu”, những “câu thơ bị thương/lấp lánh”... Đó không chỉ là cuộc chiến tranh đã qua nhưng

 

chưa bao giờ ra khỏi chính anh, mà nó còn là một cuộc chiến khác về lòng tự hào và sự ăn năn của những người còn sống.

Quả đúng vậy, thơ Vường Cường nhiều lần nhắc đi nhắc lại về sự hi sinh, những linh hồn sống, những nghĩa trang và những bóng ma luôn đào xới xoáy sâu vào cõi tâm linh thi sĩ. “Tôi mơ”, “Cõng bạn đi chơi”, “Đêm ngủ ở nghĩa trang Trường Sơn”, “Viết ở nghĩa trang Văn Điển”, “Những cặp mắt ấy vẫn nhìn tôi”, “Những con ma làng”… và đặc biệt là bài thơ “Người chết hai lần chưa trọn cuộc đi” đều là những tứ thơ độc đáo giàu sức lay động, neo giữ hồn người”.

Với một người sinh ra giữa làng Đông Bích yên bình, lớn lên bằng lời ru và những răn dạy chan chứa ân cần, yêu thương của bà của mẹ, được cầm súng chiến đấu bảo vệ sự yên bình ấy cho quê hương, xứ sở, đâu dễ nguôi quên máu và nước mắt của nhân dân, của đồng đội mình.

Cho đến giờ, người thơ ấy vẫn “Tôi mơ”:Hồn khói đã bay/ cõi vô vi tôi thức./Thành cổ ơi, mỗi ngày tôi mất một trăm năm mươi người bạn/ tám mốt tầng tháp lửa và hoa./ Giờ bạn cỏ non hát về tương lai/ giờ bạn thông ru bảo tàng lòng đất./ Tôi mơ làm chó đá/ đứng canh chừng lãng quên…”

Thơ là hành trình sáng tạo đơn độc, phải là sự khác biệt.

Là giảng viên có tiếng ở Học viện Chính trị Quốc gia, có bằng tiến sỹ lý luận, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, vậy mà Vương Cường “chưa bao giờ rời xa thơ”.

Làm thơ từ khi học tiểu học, có thơ đăng báo Trung ương từ rất sớm, từng đoạt giải Nhì thi thơ trên báo Tuổi trẻ năm 1981 cho 4 bài thơ :Phía sau và phái trước, Anh mang về cho em, Những điều khó nói, Khi tôi cầm tay em… nhưng có cảm giác rằng ông chỉ ghé sân thi ca cho vui một chút thôi, chứ không nặng lòng với nó.

 Nhưng thật bất ngờ, Vương Cường lại là người yêu và trăn trở rất nhiều cho thi ca. Ngay cả quãng dài mười lăm năm gần như không viết thơ (chỉ được 3,4 bài chi đó như ông nói) thì ông vẫn không nguôi nghĩ về nó. Vương Cường nói, ông “không dễ viết”.

Nhà thơ Vương Cường cùng nhà thơ Trần Quang Quý. Ảnh: P.V

“Có thể tôi kỹ tính chăng, nhưng tôi quan niệm thơ phải là sự khác biệt. Nếu mà anh viết cũng giống tôi, thì chẳng sinh ra thêm một nhà thơ nữa làm gì. Mỗi người thơ phải đi một con đường sáng tạo riêng để đến với thi ca.  Vì thế tôi không thích dạng thơ vần điệu, thơ “công thức”.

 

Tôi chủ trương thơ không vần điệu mà lấy nhạc điệu làm nền. Tôi biết mình nói ra sẽ có ít nhiều đụng chạm, nhưng đó là quan điểm của tôi. Và tôi luôn trăn trở để tìm “lối đi” của mình”.

Vương Cường cũng nói rằng, ông chưa và không bao giờ đặt mục tiêu lấy thơ để “nuôi” mình. “Hy sinh vì nó thì được nhưng không trông cậy để nó nuôi mình” đó chính là ứng xử của ông với thơ.

 Nói về thực trạng thơ hiện nay, Vương Cường cho rằng thơ Việt Nam còn đang trong một “mớ bòng bong”. Để thay đổi, có sự phân hóa, thì cần tới 4 yếu tố quan trọng: đó là yếu tố thời đại, đội ngũ nhà thơ mới tiên phong, đội ngũ nhà phê bình có tầm, và đội ngũ người đọc tốt.

Ông cũng tự nhận, làm thơ được cũng vật vã lắm. Vì thế, “nếu bỏ được thơ, tôi bỏ lâu rồi, nhưng tôi là người bị nó ám, không tài nào dứt được”. Vì thế chăng mà “đoạn cuối đời lại gắn vào với Hội Nhà văn?”

Nhà thơ Vương Cường, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam

Đã xuất bản:  Bài hát đi tìm một người (NXB Văn hóa, 1997); Đám mây hình thiếu phụ (NXB Văn học, 2010); Canh chừng lãng quên (NXB Hội Nhà văn 2016)

Chuẩn bị in: Đưa tay ra vẫy ngoài vô tận (tập nghiên cứu lý luận)

Đô thị hóa và một số vấn đề kinh tế xã hội( nghiên cứu

 

  1. Vương Đình Trâm – Nhà Thơ

 

                                      VƯƠNG ĐÌNH TRÂM

                                      NHÀ THƠ

                                                 Sinh năm :   1935 

                       Quê quán: Đông Bích, Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An

          Thưộc dòng họ Vương Đông Bích, Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An

  Thuở nhỏ theo học trường trung học Hồ Tùng Mậu Anh Sơn , nghỉ học sớm do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn. Đi công nhân, làm cán bộ kỹ thuật Lâm trường Con Cuông, Ngệ An.

   Có trí tuệ minh mẫn, năng động. Yêu và hiểu biết sâu sắc văn chương kim cổ. Có năng khiếu sáng tác thơ. Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Nghệ An, Giải thưởng Văn học Nguyễn Du (1985), Hồ Xuân hương (2005) của tỉnh ,3 lần đạt giải thưởng sáng tác về Đề tài Lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp (1967,1970,1982 ), thơ hay báoVăn nghệ (1978), thơ hay Tạp chí Sông Lam (2000 ).. Đã in : Nơi gặp gỡ (tập thơ,1976), Nỗi nhớ cánh rừng (tập thơ,1999), Ráng chiều (tập thơ,2002), Cố hương ( 2014).

Huân chương Kháng chiến Chống Mỹ cứu nước hạng Ba.

Huy chương Vì Sự nghiệp Văn học Nghệ thuật

 

  1. Vương Đình Long – Nhà Giáo Ưu tú

 

                                          VƯƠNG ĐÌNH LONG

                                                   NHÀ GIÁO ƯU TÚ

                                          Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An

                                                      Sinh năm :  1951

         Quê quán : Đông Bích, xã Trung Sơn, Huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An

                     Thuộc dòng họ Vương Đình làng Đông Bích, xã Trung Sơn

       Bút danh : Vương Long

Thuộc chi họ Vương Đình làng Đông Bích , Nghệ An

Ngày tháng năm sinh :  3-10-1949

Điện thoại : 0948 360 898

Gmaiil: longvuong50@gmail,com

      Tốt nghiệp THPT năm 1968. Những năm kháng chiến chống Mỹ sản xuất nông nghiệp ở quê, nhiều năm làm tiểu đội trưởng dân quân, Kế toán HTX, Thống kê xã, Thường vụ Đoàn xã. Năm 1977 vào Đại học Sư phạm Vinh, khoa Văn  . Từ 1981 đến 1887 làm giáo viên cấp 3 tại Quảng Nam . Từ 1987-1995 là giáo viên rồi HP-HT trườngChuyên Văn-Toánh huyện Đô Lương. Tháng 8 năm 1995  Phó Trưởng Phòng GD&ĐT huyện . Từ năm 2001 làm Trưởng phòng cho đến lúc nghỉ hưu (  12- 2010 ). Huyện uỷ viên khoá XVII.

Có sáng tác thơ. Hội viên Chi hội VHNT Nghệ Tĩnh (1977) Giải thưởng  Chi hội văn nghệ Nghệ An 1969. Giải thưởng sáng tác thơ về đề tài thương nghiệp, Bộ Nội thương và Hội Nhà văn VN năm1973. Đã in : Hương thơ dại ( Tập thơ, NXB Nghệ An , 2009 ). Nẻo về (Tập thơ ,NXB Nghệ An 2019)

Huy chương Kháng chiến Chống Mỹ cứu nước hạng Nhì.

Nhà giáo Ưu tú ( 2006 ).Bằng khen của Thủ tướng và Huy chương Vì sự nghiệp GD&ĐT.

  “ Tuy đến với thơ từ rất sớm ( từ năm 1972 đã có thơ in báo Văn nghệ ) nhưng với Vương Long, thơ không phải là chuyên nghiệp. Trước khi trở thành Nhà giáo ưu tú, nhà quản lý giáo dục , anh đã có gần 10 năm vật vã với sắn khoai cày cuốc. Và bây giờ , sau khi hoàn thành nhiệm vụ của một công chức , anh lại trở về bận rộn với công việc làng xóm, với họ hàng vườn tược như một lão nông thực thụ. Anh bảo : mình chưa bao giờ ngồi vào bàn làm thơ. Thi thoảng , trong lúc đang lao động một tứ thơ nào hay hay chợt đến thì  nhẩm viết thành câu. Lúc nào nhớ thì chép lại, quên thì thôi. Có lúc bẵng đi cả năm không viết câu nào. Nhưng thơ vẫn không bỏ anh. Như một tình yêu dai dẳng, càng thưa thớt càng nồng nàn.Tại sao vậy? Không lý giải được.Cũng giống như cái làng quê anh vậy.

      Quê anh, làng Đông Bích, nổi tiếng là Làng văn chương. Ngôi làng nhỏ nằm gần sông Lam dưới chân Quỳ Lĩnh ,không đầy năm trăm nhân khẩu mà dường như ai cũng thích thơ , cũng thích làm thơ . Làng có ba Hội viên Hội nhà văn Việt Nam : Vương Trọng, Thạch Quỳ, Vương Cường và ngót chục người là hội viên  hội văn học nghệ thuật ở các địa phương. Nhiều người không thuộc “ hội ” nào cả nhưng sự đam mê văn chương thì chẳng thua kém gì các nhà thơ thực thụ. Có lẽ cái mạch nguồn sáng tạo ấy của làng quê họ tộc đã ngấm vào anh , nhắc nhở anh phải viết.

Sống gần gũi với làng quê, thơ anh là sự cảm thông chia sẻ với những lo toan vất vả của người nông dân ... ; là nỗi khát khao khắc khoải mong một điều gì sẽ đến ... Nhiều hơn cả vẫn là những bài viết về những người ruột thịt gần gũi. Những mẹ những anh những chị...mà qua đó người đọc có thể gặp lại hình bóng những người thân của mình, bóng dáng lịch sử của một thời thiêng liêng và bi tráng.  Vương Long viết ngắn, hầu hết là thơ tứ tuyệt. Các bài thơ đều có tứ, ẩn chứa một điều gì đấy để người đọc phải suy nghẫm....

     Vương Long làm thơ theo lối truyền thống, không có những hình tượng ngôn ngữ mới lạ nhưng bù lại thơ anh giàu cảm xúc. Tình người thấm đẫm trong mỗi câu chữ neo giữ lòng người...” 

    Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Vinh năm 1981, Vương Đình Long đã vào công tác, giảng dạy tại Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng, Núi Thành, Quảng Nam từ năm 1981 -1987. 

Sau đó, thầy về dạy học và làm công tác quản lý tại Trường chuyên Văn Toán Đô Lương nay là Trường THCS Lý Nhật Quang, từ năm 1995

Từ 2001 đến 2011 Nhà giáo ưu tú Vương Đình Long làm trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An cho đến khi nghỉ hưu năm 2011. 

    Vương Đình Long vinh dự được tặng

Huy chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất;

Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ

Nhiều Bằng khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo, UBND tỉnh

Được phong tặng Danh hiệu Nhà giáo ưu tú năm 2006. 

 

  1. Vương Đình Cừ - Bác sỹ Quân đội

 

                                      VƯƠNG ĐÌNH CỪ

                       BÁC SỸ QUÂN ĐỘI – ĐƯỢC GẶP BÁC HỒ

                                 Diễn Cát, Diễn Châu, Nghệ An

                                Sinh ngày:  16 tháng 11 năm 1928   

                    Quê quán: Xóm 3 Hà Cát, xã Diễn Cát, Diễn Châu, Nghệ An

                                   Tộc trưởng – Chủ tịch Hội đồng Gia tộc

                         Thuộc dòng họ Vương Diễn Cát, Diễn Châu, Nghệ An

                                           Điện thoại : 0824 115 898

 Thương binh 2/4, chất độc da cam – vào Đảng 29 tháng 6 nặm 1953 – Chính thức 1 tháng 11 năm 1953 – Huy hiệu 65 năm tuổi Đảng

Trình độ đào tạo: Bác sỹ quân y

Nghệ nghiệp : Nguyên Bác sỹ Chủ nhiệm Quân y, Trung đoàn phó, Chủ nhiệm Quân y Quân khu.

Tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, gần 30 năm phục vụ trong Quân đội, trong đó có 10 năm chiến trường Miền Nam. Qua các chiến trường Bình Trị Thiên, Quân khu 3,Trung Lào, Tây Nguyên, Nam Bộ, Đông Bắc, Campuchia

 Chiến sỹ thi đua Trung đoàn, Sư đoàn mặt trận kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ

 Cựu chiến binh gương mấu trên quê hương Bác Hồ

 Tiêu biểu thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới huyện Diễn Châu                        

            Vinh dự cho cả cuộc đồi ông, là ngày 16 tháng 6 năm 1957, Bác Hồ về thăm Quảng Bình và Sư đoàn 325, khi đó ông là một cán bộ làm ở phòng quân y của Sư đoàn. Vinh dự lớn lao khi một trong các vị lãnh đạo cao cấp ngày đó là Bác Hồ về thăm, trong đoàn có Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Bác ân cần bắt tay, ôm hôn, chào mọi người khi bước xuống khỏi chuyên cơ. Tôi nhớ điều đầu tiên Bác hỏi, mọi người và các cô các chú có khoẻ không

Sau khi Bác hỏi thăm tình hình sức khoẻ, công việc của mội người, Bcá hỏi thăm gia đình, cuộc sống của mỗi người. Luca đó Bác như một người cha, nguopiwf anh cả trong gia đình, quan tâm lo lắn bằng tình cảm ruột thịt

  Gần 60 năm qua, nhưng trong nỗi nhớ của người bác sỹ quân y Vương Đình Cừ, những kỷ niệm vô giá một lần được gặp Bác Hồ, đã cho ông một lẽ sống, niềm tin,

hành trang theo suốt cuộc đời, giúp ông thêm vững niềm tin cuộc sống của một người lính Cụ Hồ.  

Khen thưởng:  Được Đảng và Nhà nước tặng thưởng 14 Huân huy chương các loại  

  • Huân chương kháng chiến hạng ba
  • Huân chương chiến sỹ vẻ vang nhất, nhì, ba
  • Huân chương chiến sỹ giải phóng nhất, nhì, ba
  • Huân chương chiến sỹ giải phóng nhất, nhì, ba
  • Huân chương chiến nhất, nhì, ba
  • Huân chương chiến hạng nhất
  • Huân chương Lào, Campuchia
  • Huân chương Quân kỳ quyết thắng
  • Kỷ niệmchương Trung đo9àn anh hùng

Nhiều Bằng khên, Giấy khen các cấp

 Cán bộ hưu trí, thương binh 2/4, nhiễm chất độc da cam, nhưng với tấm lòng tâm huyết, nhiệt tình với quê hương cũng như với đồng đội, ông đã bỏ công sức, tâm huyết xây dựng hồ sơ để Nhà nước công nhận hai Anh hùng liệt sỹ, đó là  Anh hùng Vương Văn Khảng, que Diễn Cát và Anh hùng Lâm Bình quê Thùaa Thiên Huế.

Tuy sức khỏe yếu, nhưng với tấm long nhiệt tình, tâm huyết với quê hương và đồng đội, ông đã sáng tác 15 tác phẩm văn học nghệ thuật, trong đó có 5 tác phẩm viết về quê hương Diễn Cát xưa và nay, dó là các tác phẩm Lịch sử xã Diễn Cát, Thi tập thơ Diễn Cát, Thue Tịch xa Diễn Cát, họ Tạ bút điền về dòng họ lớn nhất trong xã. Đặc biệt ông đã biên soạn 5 tác phẩm về dòng họ Vương Đình: Vương tộc Phả ký, Vương Đình tộc ký, Kỷ niệm ngày giỗ Tổ họ Vương Đình,Tạp san văn hóa Vương Đình, 1 tập thơ và 5 tác phẩm khác: Tình nghĩa Quân y B2, vài suy nghĩ người già, văn cúng gia tiên, tang lễ, gia đình Phả ký, ký ức thơ.

Năm 2000 là chiến sỹ thi đua yêu nước trong thời ký đổi mới huyện Diễn Châu, Cưu chiên binh tiêu biểu trên quê ghuong Bác Hồ

Năm 2007 tiêu biểu thương binh nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày thương binh liệt sỹ, được huyện, tỉnh tặng quà.

 

  1. Vương Mỹ Hòa - Giáo viện dạy giỏi tỉnh

 

                                 VƯƠNG THỊ MỸ HÒA

                                          GIÁO VIÊN GIỎI TOÁN TỈNH

                                Đông Bích, Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An

                                                        Sinh năm :   1977                    

                    Quê quán      Đông Bích, Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ A

            Thuộc dòng họ Vương Đình Đông Bích, Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An

           Chỗ ở hiện nay: Số 14, Ngõ 49, Nguyễn Huy Óánh, Khói 12

                         Phường Trường Thi, Thành phó Vinh, tỉnh Nghệ An

                         Đơn vị công tác:  Trường.

                         Đại chỉ:.

                         Trình độ đào tạo: Đại học

                         Qúa trình công tác..

                         Chức vụ;

                         Khen thưởng

                         Điện thoại   0917 188 926 – Gmail: [email protected] 

 

  1. Vương Thị Bình - Giáo viên dạy giỏi tỉnh

 

                                    VƯƠNG THỊ BÌNH

                                                GIÁO VIÊN GIỎI TỈNH

                                Đông Bích, Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An

                                                        Sinh năm :   1977                    

                    Quê quán      Đông Bích, Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ A

            Thuộc dòng họ Vương Đình Đông Bích, Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An

                         Đơn vị công tác:  Trường

                         Đại chỉ:

                         Trình độ đào tạo:

                         Qúa trình công tác.

                         Chức vụ;

                         Khen thưởng

                         Điện thoại ...........................Gmail;...........................

 

  1. Vương Phúc Đường – Bác sỹ - Đại tá

 

                                          VƯƠNG PHÚC ĐƯỜNG

                                                BÁC SỸ - ĐẠI TÁ

                                          

                                     Hồng Thành, Yên Thành, Nghệ An

                                                   Sinh năm 1964

                         Quê quán: Hồng Thành – Yên Thành – Nghệ An.

        Thuộc dòng tộc họ Vương ở xã Hồng Thành – Yên Thành – Nghệ An.

        Số điện thoại :   0989 322 425 Gmail : [email protected]

        Đại chỉ : Số nhà..........................................................................

 - Chức vụ:   Trưởng khoa..................................................................

- Cấp bậc: Đại tá   -   Học hàm............................................................

- Đơn vị công tác: Bệnh viện 108

- Tốt nghiệp ....................................................................

- Qúa trỉnh công tác..............................................................

- Công trình nghiên cứu khoa học:...................................................

- Khen thưởng:....................................................................

 

  1. HÀ TĨNH
  1. Vương Khả Cúc – Đại tá – Giáo sư – Tiến sỹ Khoa học – Nhà Văn

 

                                                VƯƠNG KHẢ CÚC

                                ĐẠI TÁ – GIÁO SƯ – TIẾN SỸ KHOA HỌC

                                                        Sinh năm 1948

                          Quê quán : xã Thạch Liên, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

                                    Thuộc dòng họ Vương Khả Đại tôn

                     Tại xứ Bàn Thạch, tổng Đông, phủ Thạch Hà, xứ Nghệ

               Nay là thôn Nguyên, xã Thạch Liên, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

                           Địa chỉ : SN:  75 Vũ Tăng Phần, Hà Nội

                     ĐT: 0903263508 - 0949834225 – 0984744711

                     Gamil:  [email protected]  

     GS.TSKH Vương Khả Cúc sinh năm 1948 tại Hà Tĩnh, nguyên Phó giám đốc Trung tâm Công nghệ Hóa – Lý và Kỹ thuật môi trường – Bộ Công an; hiện là Chủ tịch HĐKH kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp Hữu cơ – Sinh học Tây Nguyên. Sau khi khi học tập, nghiên cứu và bảo vệ tốt nghiệp Tiến sỹ khoa học tại Bungari, ông về công tác tại Tổng cục kỹ thuật – Bộ Công An, đến năm 2013, ông được nghỉ hưu.

Sau 37 năm hoạt động nghiên cứu khoa học,  Đại tá - Giáo sư -Tiến sỹ khoa học Vương Khả Cúc đã hoàn thành 8 Đề tài nghiên cứu các cấp, được cấp 5 bằng phát minh sáng chế. Đã chuyển giao 3 công nghệ đưa vào sản xuất, 15 bài viết nghiên cứu khoa học được công bố trong và ngoài nước. Trong đó có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Công nghệ sản xuất sơn phát quang, công nghệ sản xuất phân bón qua lá. Công nghệ trồng cây bằng phương pháp thuỷ canh.

Sau khi nghỉ hưu, ông lấy cảm hứng từ những công trình nghiên cứu khoa học để làm thơ và viết tự truyện. Cuối năm 2014, ông xuất bản tập thơ đầu tay với tên gọi “ Hương tóc” do Hội Nhà văn ấn hành. Sau đó ông viết tự truyện với tựa đề “ Khát vọng sống” gồm 3 tập đó là: Miền đất lửa, Đất nước hoa hồng và Đất mẹ Việt Nam. Hiện tại tập 1 Miền đất lửa đã được xuất bản do Nhà xuất bản Hà Nội ấn hành, các tập còn lại đang tiếp tục hoàn thiện và in ấn xuất bản.

Nguồn cảm hứng từ những công trình khoa học

Ngay trong buổi làm việc đầu tiên ngày 7-11-2016, GS.TSKH Vương Khả Cúc* đã chia sẻ với nghiên cứu viên Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam về nguồn cảm hứng để ông viết cuốn tự truyện mà ông ấp ủ từ năm 1989

 

GS.TSKH Vương Khả Cúc thổ lộ: ý tưởng viết cuốn tự truyện về gia đình, quê hương, về quá trình học tập, công tác và cuộc sống đời thường đã manh nha từ năm 1989, sau khi ông bảo vệ luận án tiến sĩ tại Bungari. Tuy nhiên, theo ông người làm công tác nghiên cứu khoa học thì nguồn tư liệu quan trọng và cảm hứng để viết, chính là từ những công trình nghiên cứu khoa học. Sau 37 năm hoạt động nghiên cứu khoa học, ông đã hoàn thành 8 đề tài nghiên cứu các cấp, được cấp 5 bằng phát minh sáng chế, đã chuyển giao ba công nghệ đưa vào sản xuất và 15 bài viết nghiên cứu được công bố trong và ngoài nước. Trong đó có các công trình nghiên cứu tiêu biểu như: công nghệ sản xuất sơn phát quang, công nghệ sản xuất phân bón qua lá, công nghệ thủy canh…

 

  1. Vương Ngọc Vinh - Nghệ Nhân – Nghệ Sỹ - Tác giả - Đạo diễn Sân khấu

 

                                         VƯƠNG NGỌC VINH

           HOÀNG VINH

                         NGHỆ SỸ SÂN KHẤU - NGHỆ NHÂN DÂN GIAN

                           TÁC GIA KỊCH BẢN – ĐẠO DIẾN SÂN KHẤU

                                        Khánh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh

                                             Bút danh:   Hoàng Vinh
                                               Sinh ngày: 10/8/1953
                                   Quê quán: Khánh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh

                        

                             Thuộc họ Vương Khánh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh

        Điện thoại : -0916 039 995 – Gmail : [email protected]                                                                           -   Tốt nghiệp: Khoa đạo diễn sân khấu Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Việt Nam,                

 -    Khoa quản lý văn hóa trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
-    Tác giả, đạo diễn sân khấu -  Nghệ nhân dân gian Dân ca Nghệ Tĩnh
-    Hội viên Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam
-    Hội viên Hội di sản văn hóa Việt Nam
 -   Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Hà Tĩnh
-    Chi hội trưởng Chi hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh
-    Trưởng ban chuyên ngành sân khấu - biểu diễn Hội LHVHNT Hà Tĩnh

  Chuyên biên kịch, đạo diễn, nghiên cứu, sưu tầm các loại kịch bản: Kịch nói, kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh, biên soạn lời mới và phục dựng các không gian diễn xướng dân ca Nghệ Tĩnh, biên soạn và dàn dựng các sử thi nghệ thuật, các chương trình, đề tài điều tra sưu tầm, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vật thể và phi vật th

  • Giải thưởng Văn học nghệ thuật Nguyễn Du lần 2, 3, 5, 6
    - Huy chương vì sự nghiệp văn hóa
  • - Huy chương vì sự nghiệp Sân Khấu
    -  Huy chương vì sự nghiệp văn học nghệ thuật
    -  Huy chương vì chủ quyền an ninh Tổ quốc
  • Bằng khen Thủ tướng Chính phủ
  • Bằng khen Bộ VH-TTDL về thành tich lập hố sơ trình và được công nhận Ví Giặm Nghệ Tĩnh là di sản văn hoá phi vật thể đại điện của nhân loại, năm 2014
  • Huân chương Lao động hạng Ba của Chủ tịch nước.

 SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HỌC TẬP VÀ CÔNG TÁC:
- Tham dự lớp sáng tác kịch bản - Trường Văn hóa nghệ thuật tỉnh Hà Tĩnh 1973 – 1976

 - Học khoa đạo diễn sân khấu - Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Việt Nam 1976 - 1980;

-   Học trường Đại học Văn hóa Hà Nội 1998
-   Chuyên viên Phòng Văn nghệ  - Sở Văn hóa thông tin tỉnh Nghệ Tĩnh 1980-1990;

 -  Học Viện cao cấp lý luận chính  trị Hồ Chí Minh năm 2004 - 2006
-  Chuyên viên phòng quản lý văn hóa Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Tĩnh 1990 – 1995

- Phó Giám đốc Trung tâm văn hóa thông tin triển lãm tỉnh Hà Tĩnh 1995 - 2004;  Quyền Giám đốc Trung tâm văn hóa thông tin triển lãm tỉnh Hà Tĩnh 2004 – 2005

- Trưởng phòng nếp sống văn hóa và gia đình - Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh từ năm 2005

-   Nghỉ hưu từ tháng 9 năm 2013.

                           TÁC PHẨM TIÊU BIỂU VÀ GIẢI THƯỞNG:
      GIẢI THƯỞNG

    Được thưởng Huy chương vàng, huy chương bạc của Bộ VH,TT&DL 

        -      Trái ngọt đất lành, năm 2001

        -      Giọng hò quê hương năm 2002

        -      Câu hò nối cùng sông nước quê hương, năm 2002.   

        -      Tình người nơi biên cương, năm 2002

        -      Ngôi nhà ý đảng lòng dân, năm 2003

        -      Vòng tay trong xoáy lũ, năm  2004.

        -      Điểm sáng vùng biên, năm 2005

        -      Vòng xích tim mẹ, năm 2005

        -      Nụ cười nhà nông, năm 2012

        -      Nguồn sáng, năm 2013

        -      Giải thưởng Quốc gia chương trình Sân khấu hoá Việt Nam 2016

       -       Huy chương Bạc Quốc tế Không gian diễn xướng Dân ca Nghệ Tĩnh “ Gái phường chài – Trai phường nhủi ”

  -  Huy chương vàng Không gian diễn xướng Dân ca Nghệ Tĩnh “ Nguyệt dạ tỏ lòng ”

       -  Bằng khen Bộ VHTT-DL và UBND TỈNH Hà Tĩnh về thành tích lập Hồ sơ trình và được công nhận Ví Giặm là Di sản Văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại.

       - 1 Huân chương lao động hạng Ba của Chủ tịch nước, 3 kỷ niệm chương của các ngành và nhiều bằng khen, giấy khen của các cấp.

  -   Nhiều Bằng Khen của Thủ tướng Chính Phủ, Bộ VH-TT DL và các Bộ, Ngành trương và của tỉnh Hà Tĩnh.

  -   Giải thưởng Văn học – Nghệ thuật Nguyễn Du lần 2 - 3 - 4 - 5 - 6

    ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

 Chủ nhiệm các đề tài nghiên cứu điều tra sưu tầm, bảo tồn và phát huy:

- Hát Giặm Thạch Hà

- Hò Thạch Khê

- Lễ hội Đền Chế thắng Phu Nhân Nguyễn Thị Bích Châu.

- Lễ hội Chăm ca bới dân tộc Chứt

- Hát ví Sông La

- Lễ hội Đô Đài Bùi Cầm Hổ

- Kịch bản và Phó tổng đạo diễn chương trình nghệ thuật "Đôi bờ Ví Giặm", đón nhận bằng công nhận Ví Giặm Nghệ Tĩnh là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
       TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
            I. TỔ KHÚC DÂN CA NGHỆ TĨNH

  1. Ân tình Ví Giặm hồn quê
  2. Bình Mỹ điểm hẹn mời về
  3. Cẩm Nhượng đất mẹ anh hùng
  4. Thiện căn ở tại lòng ta
  5. Trái tim người lính cụ Hồ trên quê hương Hồng Lĩnh
  6. Em khắc vào tim lời ngọc ý vàng
  7. Hát về mái trường miền Ví Giặm yêu thương
  8. Em yêu trường học VNEN
  9. Hai mươi ba mùa hoa dâng Đảng
  10. Hát mời trầu
  11. Hát mừng ngày hội Đại đoàn kết toàn dân
  12. Hát mừng non nước hôm nay
  13. Hát mừng Thành phố Hà Tĩnh hôm nay
  14. Hát về người con Làng Uy Viễn
  15. Hát về Uy Viễn Tướng Công
  16. Thị Xã Hồng Lĩnh mười lăm năm xây dựng và phát triển
  17. Hoa xuân vườn trường
  18. Hương cam ngày hội quê nhà
  19. Hương sắc cam bù quê e
  20. Khúc hát nghành Ngân hàng Thành Sen
  21. Khúc hát người nông dân ơn Đảng Bác Hồ
  22. Khúc hát từ nghành Nội Vụ yêu thương
  23. Khúc khải hoàn dâng mẹ Việt Nam
  24. Khúc dân ca từ Vũng Chùa- Đảo Yến con dâng
  25. Khúc ngưỡng vọng Hùng Vương- Việt Thường
  26. Lộc Hà đổi mới con đường đi lên
  27. Mái ấm Công đoàn
  28. Bé khôn lớn yêu thương từ trường mầm non chuẩn mực
  29. Mẹ kể con nghe ơn Đảng Bác Hồ
  30. Miếng trầu thắm đất hai quê
  31. Mừng Đảng mừng xuân, mừng Hồng Lĩnh văn minh-giàu đẹp
  32. Ngày hội đến trường
  33. Hát về thầy giáo Hà Huy Tập
  34. Săt son tình nghĩa Bình Hà
  35. Thi đua, thi đua Hà Tĩnh nổi bật lên
  36. Thư viện Bắc miền Trung thắm tình
  37. Quê ta vững bước đi lên
  38. Biển Nhượng tình em
  39. Tám mươi năm khúc hát tự hào
  40. Bài ca sắc áo hội làng
  41. Hồng Lĩnh Thành phố đẹp tương lai
  42. Thức dậy cội nguồn văn hoá Hồng Lam
  43. Cánh sóng niềm tin
  44. Hát về Bưu điện Cẩm Xuyên
  45. Hát mừng Bưu điện Hà Tĩnh hôm nay
  46. Hát về đất học Cẩm Bình
  47. Hát về nghành Giáo dục Thành Sen
  48. Hát về người chiến sỹ An ninh vì dân
  49. Hát về người cộng sản kiên trung
  50. Hãy giữ lấy chồi non
  51. Khúc hát Công đoàn Thành Sen hôm nay
  52. Mừng đất nước, mừng xuân, mừng thiên niên kỷ mới
  53. Dâng Người khúc hát tháng năm
  54. Thăm tình quê hương
  55. Tình người chiến sỹ An ninh
  56. Trọn đời vì dân
  57. Về hội Chùa Hương
  58. Yêu nghề dệt chiếu đẹp tình đôi ta
  59. Khúc hát Ngành Ngoại Vụ miền Trung Tây Nguyên
  60. Quê hương ru sóng những con tàu
  61. Khúc hát trăm năm trồng người
  62. Giáo dục Cẩm Xuyên vững bước đi lên
  63. Lời ru non nước đất trời
  64. Thắm nghĩa nhà nông
  65. Em tôi
  66. Vọng vang khúc hát tháng mười
  67. Hát về Trung tâm Y tế Hương Khê
  68. Hát về Công ty cổ phần XNK Thuỷ sản Nam Hà Tĩnh
  69. Hát mừng Làng văn hoá
  70. Kỳ Anh khúc hát tự hào
  71. Hát về trường mầm non Đậu Liêu
  72. Hát về Làng Văn hoá ( Sắc bùa)
  73. Phụ nữ Công An Hà Tĩnh toả sáng niềm tin
  74. Lời chào nhà nông
  75. Sách bút tích thiêng liêng của thời đại
  76. Sáng ánh Huân chương phường sáng đẹp, mạnh giàu.
  77. Khúc hát mừng làng văn hoá
  78. Khúc ru Sông La
  79. Tám mươi năm khúc hát tự hào
  80. Thành Sen một toáng lời ru
  81. Mẹ dặn con
  82. Khúc ca Ngành Thuế quê mình
  83. Ơn Người sánh tựa trời cao.
  84. Lời chào nhà nông
  85. Hát về thị xã Kỳ Anh ngày mới
  86. Minh Lương – Trung Lương phường sáng đẹp tương lai
  87. Thương mãi Sông La
  88. Về quê mình đi anh
  89. Mời anh về miền Ví Giặm
  90. Kỳ Anh 180 năm khúc hát ân tình
  91. Khúc hát than vàng Khe Bố
  92. Trái tim người lính Cụ Hồ trên quê hương Trần Phú
  93. Nam Hà trống hội nội lực đồng tâm
  94. Yêu mãi quê mình đất mẹ Tượng Sơn
  95. Khắc mãi vào tim người khoa học và công nghệ
  96. Khắc sâu lời bác dạy
  97. Ngày hội đến trường
  98. Thoả chí làm trai
  99. Máu thắm tim đường
  100. . Lời Người sáng mãi con tim
  101. Sáng mãi con tim
  102. Trống hội Nhà nông

 

  1. KHÔNG GIAN DIỄN XƯỚNG DÂN CA NGHỆ TĨNH
  2. Trai Phường Nón, Gái Trường Lưu
  3. Kháp mặt hẹn dạ nên duyên
  4. Nguyệt dạ tỏ lòng
  5. Nông thôn mới sức sống mới mạnh giàu
  6. Tế ca đường
  7. Tiểu học Nam Hồng mái trường toả sáng niềm tin
  8. Trai Nôốc Lái, Gái Cồn Gò
  9. Lung linh hồn quê Ví Giặm Thạch Hà
  10. .hanh niên với cải cách hành chính
  11. Phường Vải, Phường Nhủi Đồng Môn
  12. Dằm chợ nên nghĩa nên tình
  13. Trai Truông Xai. Gái Khe Chẹt
  14. Trai Vân Chàng, Gái làng Kẻ Bấn
  15. Trang sách câu hò nối cùng chiến thắng Điện Biên
  16. Gái Phường chài, Trai Phường Nôốc nên duyên
  17. Công trình đại thuỷ nông Kẻ Gỗ ba mươi năm khúc hát tự hào
  18. Tiểu học Trần Phú hai mươi mùa hoa dạy tốt, học tốt dâng Bác kính yêu
  19. Cuộc đối trên bờ, dưới ruộng
  20. Khúc duyên tình hai quê
  21. Đêm trăng Phường Vải
  22. Mười mùa hoa dạy tốt, học tốt
  23. Khúc hát ru bên dòng Nậm Mộ
  24. Trai làng rèn Minh Lương thương gái Yên Hồ dệt vải
  25. Trai hàng bè Tiếp Vọ, gái dê ló Nguyệt Ao
  26. Ô lục soạn
  27. Hương đất tình người đất mẹ Tượng Sơn
  28. Nghìn hoa việc tốt dâng Bác kính yêu
  29. Chợ tỉnh chính phiên, nên duyên nên tình

 

   III. KỊCH BẢN

     KỊCH HÁT

  1. Thức dậy cội nguồn
  2. Tìm về câu hát quê hương
  3. Hương sen tình Người
  4. Bến nước tình đời
  5. Đại thần trung liệt Ngự Sử Triều cương
  6. Ngôi nhà tình nghĩa
  7. Nữ trung hào kiệt Ngọc Bích Triều Trần
  8. Gia biến
  9. Mặt biển bình yên
  10. Huyền thoại Đức Chúa Ba
  11. Hoạn Thư ghen chồng

 

KỊCH NÓI

12,           Gía của hạnh phúc

13,            Thế gian mấy người

            Câu ca giọt lệ

  1. Tình yêu hay bạc nén
  2. Tiếng khóc giữa cuộc bàn giao thế kỷ
  3. Hậu Nghêu Sò Ốc Hến

 

IV, TIỂU PHẨM

  1. An toàn giao thông sự sống mọi người
  2. Bé tập làm văn hoá, văn minh
  3. Bình yên duyên mới
  4. Chớ có làm ngơ
  5. Chủ thể
  6. Chuyện gia đình văn hoá
  7. Chuyện ở ngã ba làng
  8. Con chữ tình thương
  9. Con đường ý đảng lòng dân
  10. Con đường chung ánh sao cờ
  11. Con đường ông Cận bà Kề
  12. Cuộc gặp bất ngờ
  13. Cuộc thi người đẹp an toàn giao thông
  14. Đất bạc, đất vàng
  15. Đất gọi tầm xa
  16. Đồng tiền nhân nghĩa
  17. Đừng như cháu tôi
  18. Đừng tính thiệt hơn
  19. Dưới cây Thánh giáGieo gió gặt bão
  20. Hạt thóc đồng nhà
  21. Học thuộc lòng không thực hiện
  22. Khải phong số 1 nhập điền
  23. Niềm vui tiêm chủng
  24. Hãy giữ nếp gia phong
  25. Kỹ năng sức sống văn minh
  26. Lỗi lầm không chuộc nỗi
  27. Lỗi tại ai
  28. Lý Tự Trọng tên anh sáng mãi
  29. Đồng tiền nhân nghĩa
  30. Mầm non Cẩm Nhượng
  31. Nghĩa xóm tình làng
  32. Nhịp đập hoàn lương
  33. Niềm tin tiêm chủng Thạch Hà
  34. Niềm vui đưa trẻ đến trường
  35. Nỗi lòng người cán bộ hội

37.Nông dân với văn hoá giao thông    

38.Nụ cười nhà nông

 39.Nước mắt người mẹ     

40.Rượu đắng

41.Sốt điện thoại

  1. Tấm thẻ bảo hiểm ông ngờ

43.Tấm thẻ tình thương

44.Tham bát bỏ mâm

45.Thấu tỏ lòng nhau

  1. Tình nước tình làng
  2. Tình người lương y
  3. Trái ngược

49.Trẻ khôn lớn yêu thương từ mái trường đạt chuẩn

50.Trường mầm non cho con trưởng thành

  1. Vacxin niềm tin tiêm chủng
  2. Vẹn lý trọn tình
  3. Vì đâu
  4. Hợp tác xã kiểu mới, sức sống mới mạnh giàu
  5. Tình đời đạo lý
  6. Mô hình ý Đảng, lòng dân
  7. Cốt cách nhà nông
  8. Khắc giữa con tim lời dạy Bác Hồ
  9. Lời Bác thắm giữa lòng ta
  10. Lời người khắc giữa con tim
  11. .Kỷ vật, khát vọng hoàn lương

 

  1. KỊCH THÔNG TIN CỔ ĐỘNG
  2. Trái ngọt đất lành
  3. Điểm sáng vùng biên
  4. Tình đời đạo lý
  5. Máu thắm đất thiêng
  6. Đi tìm đồng đội
  7. Năm mươi năm con đường – Con người
  8. Ngôi nhà ý Đảng lòng dân
  9. Biển hẹn Thiên Cầm
  10. Vòng tay trong xoáy lũ
  11. Phía sau cuộc sống bình yên
  12. Mặt biển bình yên
  13. AIDS với cộng đồng
  14. Lộ trình một thảm hoạ
  15. Thủ phạm cánh rừng tàn
  16. Cốt cách Thành Sen
  17. Hãy giữ lấy hạnh phúc
  18. Đất học quê tôi

 

  1. SỬ THI NGHỆ THUẬT
  2. Hà Tĩnh 180 năm âm vang miền địa linh nhân kiệt
  3. Hồng Lĩnh 20 huyền tích diệu kỳ
  4.  Đông Lâm Khánh Lộc 80 năm dưới ánh búa liềm bừng sáng một vùng quê
  5. Trường THPT Nguyễn Huệ, KỳAnh, Hà Tĩnh
  6. Thạch Xuân hương đất tình người
  7. Trường THPT Lý Tự Trọng 50 trang sử vàng sáng toả niềm tin
  8. Kỳ Anh những chặng đường
  9. Thạch Bằng 60 năm bừng sáng một vùng quê
  10. Thiên Lộc- Can Lộc miền địa linh huyền thoại
  11. Trường THPT Kỳ Anh 50 năm hội tụ và toả sáng
  12. Đôi bờ Ví Giặm
  13. Hương Vĩnh vang mãi khúc ca anh hùng
  14. Hãy giữ vững chí khí chiến đấu
  15. Hai mươi năm thị trấn sáng niềm tin
  16. Thạch Châu đất anh hùng sáng mãi ngàn năm
  17. Trường THCS Mỹ Châu mười mùa hoa đạy tốt, học tốt
  18. Hội Nông dân Hà Tĩnh 78 năm xây dựng trưởng thành và phát triển
  19. Cẩm Nam 60 năm xây dựng và trưởng thành
  20. Linh thiêng Vương tộc Việt Nam

 

      VII. ĐẠO DIỄN:
- Đường cấm - Huy chương vàng năm 1985
- Kê minh thập sách - Huy chương vàng 1995
- Trái ngọt đất lành - Huy chương vàng 1996


- Ngôi nhà tình nghĩa - Huy chương vàng 1996
- Vòng tay xoáy lũ - Huy chương vàng 2003
- Điểm sáng vùng biên - Huy chương vàng 2005
- Nụ cười nhà nông - Huy chương vàng 2011
- Nguồn sáng - Huy chương vàng 2013

  • Nước mắt vùng tâm bão – Huy chương Vàng năm 2016
  • Nước bạc, tôm vàng – Huy chương Bạc năm 2016
  • Con đường ý Đảng, Lòng dân – Huy chương Bạc năm 2016

                                              Tác phẩm tiêu biểu

                                       TRAI LÀNG RÈN MINH LƯƠNG

                                       THƯƠNG GÁI YÊN HỒ DỆT VẢI

                                    Không gian diễn xướng dân ca Nghệ Tĩnh

Không gian :           Dòng sông Minh

      Đôi bờ Làng Yên Hồ dệt vải và Làng rèn Minh Lương

      Những tấm lụa vắt lên sào phơi, bụi tre, cây cau, những chiếc xa dệt vải, chõng

      tre, ấm nước, quạt nan

      Những dụng cụ làng rèn đe bệ, búa kéo dao, kìm..

Thời gian :    Chiều ngả bóng hoàng hôn xuống dần.

(Âm nhạc nổi lên sâu lắng ngọt ngào, những cô gái làng dệt Yên Hồ kéo những tấm lụa nhiều màu hong lên sào và những gốc cây, những cô gái khác mang xa dệt vải để

ào vị trí quy định, tất cả như đang trong cảnh đợi chờ. Phía bên kia sông các chàng trai làng rèn Minh Lương đang chuẩn bị dụng cụ nghề rèn, tất cả như muốn ngó ngong sang các cô gái dệt vải Yên Hồ)

Trai ML 1       (Sau khi ăn ý với các bạn rèn, hướng sang phía gái làng dệt)

Ví cao :            Ơ..Chơ các mự dệt vải thoi vô, thoi ra làng Yên Hồ bên nớ đó ơi.

Các gái YH:    Ơi…Chơ chi rứa các cậu thụt vô, thụt ra làng rèn Minh Lương bên tê,

                        đó ơ nạ

Trai ML 1       Ví cao :  Ơ…Trai làng rèn Minh Lương bầy tui thụt hay, rèn giỏi

                        Muốn lội sông Minh sang ướm hỏi gái dệt vải Yên Hồ

                        Mà mắc cấy sông Minh hấn chặn hẹn, ngăn hò

                        Ước mần răng mự bắc cầu dải lụa, sang tận bờ đón tui

Trai ML          Nói : Ước mần răng mự bắc cầu dải lụa, sang tận bờ đón bầy tui sang,

                        đó nạ

Gái YH 1        Ví cao :     Ơ…Chơ các cậu trai làng rèn Minh Lương, đó ơi

  1. trai ML Ơi…Chơ chi rứa nựa, các mự dệt vải Yên H

Gái YH 1         Ví cao :    Ơ…Gái làng dệt Yên Hồ thoi vô, thoi ra dẻo như kẹo mật

                         Ước mần răng được trai làng rèn Minh Lương sang ta khoan nhặt

                          đường tơ

                          Dừ em bắc cầu dải lụa sang bên tê bờ

                          Đón trai làng rèn Minh Lương sang nhởi, rồi ta thoi ra, thoi vô

                          Thì hấn sướng cấy bụng, biết chừng mô, anh nờ.

Các gái YH        Ví tiếp :

                        Đón trai làng rèn Minh Lương sang nhởi, rồi ta thoi ra, thoi vô

                       Thì hấn sướng cấy bụng, biết chừng mô, anh nờ (Cười tươi vui) hà hà…

Các trai ML    Nói:  Đón trai làng rèn Minh Lương sang nhởi, rồi ta thoi ra, thoi vô

                       Thì hấn sướng cấy bụng, biết chừng mô, anh nờ (Cười tươi vui ý nhị )

                       Hà hà (Gọi to) Nì, bắc, bắc cầu, bắc cầu đi các mự ơi.

Các gái YH    (Gọi to) Âỳ, em, em bắc cầu các anh nh

  1. trai ML (Gọi to) Ầy, em bắc cầu anh sang nha.

Các gái YH    Hát giặm ru : (Gái làng dệt kéo tấm lụa bắc cầu cho trai làng rèn sang

                       sông)

                        Minh giang chiều giát bạc

                        Vọng câu hát ân tình

                         Ai chung dạ đinh ninh

                         Ai chung tình bến cạn

                         Nghĩa chung tình bến cạn                               

                         Ơi Minh Lương trai bạn

                         Đẹp dáng lại dòn sắc

                         Cầu dải lụa em bắc

                         Bắc tình sâu, nghĩa nặng

                         Bắc sâu tình, nghĩa nặng

Các trai ML     Cho sông dài mấy trượng

                         Cho biển rộng mấy vời

                         Cầu dải lụa em ơi

                         Nối tình ta bến đợi

                         Ta hẹn về bến đợi

Trai ML 1        Ví cao :   Ơ…Gío thoảng, lụa bay làng Yên Hồ lụa bay, gió thoảng

                    Gío đẩy lụa bay cho dáng em thấp thoáng lưng ong

                    Lụa xanh, lụa tím, lụa hồng

                    Đang nguyên chuông hay đạ, xé vưông lòng cho ai ?

  1. trai ML Ví tiếp:     Đang nguyên chuông hay đạ, xé vuông lòng cho ai, rồi nạ

Gái YH 1     Ví cao :     Ơ.. Gío thoảng, lụa bay làng Yên Hồ lụa bay, gió thoảng

                     Gío khung đẩy mà lụa nỏ bay chỉ dáng em thấp thoáng lưng ong

                     Lụa xanh, lụa tím, lụa hồng

                     Đang nguyên chuông mà nỏ chộ trai làng rèn Minh Lương tỏ lời.  

  1. trai ML Hát giặm Đức Sơn :

                                         Sợ là sợ mẹ, sợ cha

                                         Công sinh thành dưỡng dục

                                         Rồi hóa ra công dã tràng

                                         Thấy ưng người ta cha mẹ kinh hoàng

                                         Chộ con cái đua đòi rồi sai duyên lở phận

                                         Để sai đường lở phận

Các gái YH    Hát giặm Đức Sơn :        

                                         Chữ ân tình có đường chi dễ dải

                                         Chớ có ngại tục, ngần phong

                                         Nhớ câu gái lịch, trai thanh

                                         Ước mần răng duyên phận được yên lành                                    

                                         Cho thoả chí trai hùng sánh cùng gái hạnh                                        

                                         Ước trai hùng, gái hạnh.

Trai ML 2    Hò :   Hò ơ hò… Trai làng rèn Minh Lương chịu thương, chịu khó

                               Sang đất Yên Hồ muốn thấu tỏ lòng ai                  

                               Tìm người dệt vải khéo tay

                               Mà sợ chỉ đứt, tơ rối biết cậy ai gở dùm

Gái YH 2    Hò :    Hò ơ hò…Trai làng rèn Minh Lương giỏi búa đe, thụt bệ

                              Có biết chi nghề bông vải, dệt may

                              Chơ hỏi anh chi dâu, chi tằm, chi sợi, chi dây

                              Chi thoi, chi suốt, chi may, chi luồn

Các gái YH  Hò tiếp :   Chơ hỏi anh chi dâu, chi tằm, chi sợi, chi dây

                                      Chi thoi, chi suốt, chi may, chi lu…ồn…

                     Nói to :     Chi lu..ồn.., rồi luồn chi rứa các cậu thụt, thụt làng rèn, nạ

  1. trai ML Nói to : Chi lu..ồn…ạ, các mự coi cậu luồn nha

Hát giặm ru :       Chơ sợi mự mềm, mự mượt

                            Sợi mự mượt như tơ

                            Thoi tui nhẹ mà đưa

                            Cấy khung hấn cót két đu đưa

                            Cấy thoi hấn khút khít đu đưa

                            Tui với mự ta đu đưa

                            Mự với tui ta luồn mự hẹ

                            Tui với mự ta luồn mự hẹ

Các gái YH    Rứa thì cậu ơi hãy kề lại                    

                       Có suốt lại có thoi

                       Có sợi có khung rồi

                       Tui với cậu ta luồn thôi

                       Sợ chi khung hấn cót két

                       Sợ chi luồn mà cót két.

Trai ML 3   Hò Nghệ :   Ơ ơ hờ …Gặp em trửa Yên Hồ làng dệt

                    Như dâu gặp tằm, dâu kết tằm ơi

                    Ước chi em tằm, anh lá dâu tươi

                    Để ta thành nong, thành kén, ta dệt lứa đôi duyên mình.

Gái YH 3    Hò Nghệ :   Ơ ơ hò …Gặp anh trửa Yên Hồ làng dệt

                    Như sen gặp hồ, cá gặp nước, rồng gặp ơ mây

                    Ưóc chi trai làng rèn Minh Lương, gái Yên Hồ làng dệt ta đây

                    Nên duyên, kết ơ phận, tình say, nghĩa nồng

Các trai ML (Các trai ML bưng khung cửi lên, các gái YH bơi theo qua sông)

Hát giặm vè :      Rứa thì em ơi ta lội

                           Sông Minh tới Minh Lương

                           Sang bến Nậy, xóm Đền

                           Về bến Điếm, xóm Cầu

                           Sang xóm Hầu, xóm Nậy

                           Vải với rèn kết lại

                           Nghề truyền bởi cha ông

                           Vải em bán chợ trong

                           Vải em sang chợ Vịnh

                           Chợ Trổ rồi chợ Vịnh

Các gái YH    Đêm em nằm em tính

                       Vải lụa chí vải thô

                       Đi chợ mới Yên Hồ

                       Chợ Nam Ngạn người mua

                       Giao kéo, lưỡi cày, bừa

                       Cuốc xuổng hàng rèn đưa

                       Thoả người bán, kẻ mua

                       Dân bán mua đô hội

                       Vải với rèn ta đô hội.

Trai ML 1      Ví Đò đưa nước ngược:

                       Ơ ơ hờ ơ hờ …Thà khi trước em nói không thương anh thì thôi

                       Dừ em (đạ) nói thương anh rồi

                      Anh về mần một cấy lò to, một cấy khung (nhỏ)                 

                      Cấy lò to anh đúc gang, thụt bệ, cấy khung nhỏ em dệt vải, quay tơ

                      Anh rèn, em dệt vải say sưa

                      Cho tình thắm (mại),làng rèn làng vải sớm trưa chung lòng.

Gái YH 1       Hò:   Hò ơ hò …   Từ Kẻ Dè cho tới Đồng Dâu

                                         Em về cuốc đất trồng dâu, chăn tằm

                                         Ưóc ông Nguyệt Lão xe phận trăm năm

                                         Anh chồng em vợ tình hảo, sắt cầm bên nhau

C.trai ML     Hò :  Hò ơ hò..     Gái Yên Hồ đẹp nghĩa bền lâu

Các gái YH                              Trai Minh Lương chung thuỷ trước sau một lòng

Tât cả                    Yên Hồ vải thắm chỉ hồng

                              Minh Lương than đượm lửa nồng sắt, gang

                              Trai hùng, gái hạnh hai làng

                              Tình sâu, nghĩa nặng, chữ đá vàng không phai.

Tất cả       Hát giặm kể :      Khi mô lươn lên rừng mần ổ

                            Vượn chốông nốôc đi buôn

                            Ròi độ gạy cành cơn

                            Chuột khoét thủng Hoành Sơn

                            Nác đổ thấm lá môn

                            Cá vượt thác Vũ Môn

                            Gái Yên Hồ nên duyên

                            Trai nghĩa nặng Minh Lương

                            Mới hết thương, hết nhớ

                             Mới hết lòng thương nhớ.

  1. trai ML Hò trên sông : Hò ơ hò…Nhớ gái mà Yên ơ Hồ

Tất cả           Là khoan dô khoan

  1. trai ML Đẹp dạ mà đẹp ơ lòng

Tất cả           Là khoan dô khoan

C.trai ML     Người ơi, ơi người   

Các gái YH  Minh Lương đợi là Minh Lương chờ

  1. trai ML Là khoan dô khoan

Tất cả             Cùng một dạ đợi ơ chờ, là khoan dô khoan

                        Người ơi, ơi người, ta kết là một ơ lòng, là khoan dô khoan

                        Người ơi, ơi người, ta hẹn là một ơ lòng, là khoan dô khoan

                        Ta hẹn mà ta chờ, là khoan dô khoan

                        Ta đợi mà ta chờ, là khoan dô khoan                     

                        Ta đợi… mà ta… chờ… ./.

                                                   Hết                                 Tháng 7/2016

                                                      

                                            ĐẠI THẦN TRUNG LIỆT

                                            NGỰ SỬ TRIỀU CƯƠNG

                                            Kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh

                                  

                               Nhân vật :       1.   Vua Lê

  1. Bùi Cầm Hổ
  2. Quan Ngự Sử
  3. Nguyễn Trãi
  4. Trần Nguyên Hãn
  5. Phạm Văn Xảo
  6. Tể Tướng Lê Sát
  7. Nguyễn Văn Linh
  8. Trịnh Long Bá
  9. Đinh Cảnh An
  10. Nguyễn Vĩnh Tích
  11. Quan 1,2,3
  12. Nữ dân oan
  13. Cụ từ nhà Đền
  14. Mẫu Thượng ngàn
  15. Lính 1,2,3
  16. Đội múa hát.

 

 

                                                               Cảnh một

                                            THIÊN NHẠC GIÁNG THẦN

                                          HỒNG VẬN NỔI THÁNH NHÂN

                          Cảnh chính diện nhà Đền Đô Đài Ngự Sử Bùi Cầm Hổ

                                   Trong ánh hào quang, tiếng nhạc trầm hùng,

                        Bùi Cầm Hổ xuất hiện ở trên cao, nhân dân, quan quân từ các

                       phía của sân khấu xuất hiện trong sự tôn nghiêm, ngưỡng vọng.

Đọc thơ Đường :

       “Đức cả, tài cao Vua trọng dụng

         Tính ngay rộng lượng sử lưu truyền

         Khê thuỷ trường lưu thiên cổ trạch

         Thiện canh giải phá bách niên oan

         Công ư bang Quốc, danh ư sử

         Khí tại Sơn hà, trạch tại nhân

         Hai lần viễn sứ lừng đất Bắc

         Một tay lương đống sáng trời Nam”

Múa cờ Hội trên nền trống nhạc và ngâm thơ Đường thi.

Ngâm thơ Đường :

      “Miếu mạo nghìn trùng cao vời vợi

        Phương dân muôn thưở nhớ hoài hoài

        Chúc rằng “ Phúc hữu trùng lai”     

        Hồng Lam chung tú

        Bùi Tướng Công thiên cổ vĩ nhân

        Bát canh Hoàng thiện oan kia giải

        Ngọn nước Thanh Khê đức ấy đầy

        Đại ân Đức Thánh Đô Đài

        Danh Thần sáng giá ba đời Hậu Lê

        Ô Đài thuở trước lừng danh tiết

        Bạch Tỵ ngày nay nức khói hương.”       

Sáu nữ trang phục lễ nghi rước cỗ hương hoa, quả phẩm, đèn nến dâng cao xung quanh hình tượng Bùi Cầm Hổ trong tiếng trống dâng hương

.Múa hát dâng lễ vật.

 Gốc lúa quầng trăng :

     -  Như mặt trời soi, muôn năm như mặt trời soi ơ ơ

        Triều cương toả sáng, danh lừng đạo nghĩa Quân Vương

        Rạng ngời quê hương, danh thần toả sáng quê hương

        Đại ân Đức Thánh ơ ơ, rạng ngời trung liệt Triều cương

        Rạng ngời Ngự Sử Triều cương, ghi ơn muôn đời.

    -   Bạch Tỵ ngời soi, đây khe Thác Bạc ngời soi ơ ơ

        Lòng dân ghi nhớ muôn đời, nghĩa lớn, đức cao

        Mở dòng nước cho dân làng cuộc sống ấm no

        Mỗi dòng nước ấy ơ ơ, tràn đấy ân nghĩa muôn dân

        Tràn đầy ân nghĩa muôn dân, ghi ơn muôn đời.

Hết cảnh múa hát tất cả xếp hình tượng, một tiếng đàn bầu vút lên cao rồi sâu lắng. Một luồng gió rít, sấm chớp xanh rờn, một tiếng Hổ gầm, một lá cờ Hội to xuất hiện như một cánh võng, một tiếng trẻ con khóc.

Tiếng nói vọng từ sâu thẳm núi rừng

                 “ Thiên nhạc giáng Thần

                    Hồng vận nổi Thánh nhân

                    Bùi Tộc Đại Tôn phát Thánh

Hát ru Hồng Vận :

  “ Hà hà ha hà…Thiên nhạc giáng Thần, thiên nhạc giáng Thần

     Hồng Vận nổi Thánh nhân, Hồng vận nổi Thánh nhân

     Bùi Tộc Đại Tôn phát Thánh”

Chuyển múa hát Cây có một cành :      

         Soi sáng Bạch Tỵ, núi thiêng ngời soi

         Ngời soi là núi thiêng Bạch Tỵ

         Bùi Tộc Đại Tôn là Tôn phát Thánh ơ ơ

         Giáng thần nổi Thánh nhân ơ ơ, 

         Cứu dân, độ nước thương nòi, cứu dân, độ nước thương nòi

         Tôi trung nghĩa khí, bao đời rạng danh

         Danh Thần liệt trung.

(Hết phần múa hát tất cả xếp hình tượng, ba tiếng trống điểm)

                                        Hết cảnh một

           Cảnh hai

                               GAN VÀNG SOI ÁN ĐỘ DÂN

                             Cảnh Nha Môn dinh Quan Ngự Sử

Tiếng thơ vọng :

        Gan vàng soi án độ dân

        Oan khiên lấy đạo quan quân soi đường

        Kỹ cương, phép nước, cương thường

        Tôi trung, nghĩa khí con đường độ dân.

(Lính giải nữ dân oan quỳ xuống trước Quan Ngự Sử)

Quan Ngự Sử:   Này, kẻ cùng đinh bách tính kia, hãy nghe đây

Nữ dân oan:     Trình lạy quan, con xin nghe ạ.

Quan Ngự Sử:  Nhà ngươi đã phạm tội giết chồng

                         Nấu cháo độc, ngươi biết không, cháo độc

                         Để giết chồng, tội chết chém nghe không ?

Nữ dân oan:     Dạ, muôn tâu,

Tứ Hoa :

      Dạ, muôn tâu, xin quan lớn mở rộng nhân từ hải hà, ân huệ

      Xin đèn giời soi xét nỗi oan khiên như trời, như bể

      Của kẻ cùng đinh, bách tính ăn ở vì đạo nghĩa vợ ơ chồng.

                 Tiết nghĩa thuỷ chung, sau trước một lòng

                 Tề gia, tòng phụ, phu xướng, phụ tuỳ

                 Tam tòng, tứ đức trọn đời gìn giữ

                 Đậm nghĩa, thâm tình sao trái nghĩa phu thê

                 Dạ, oan khiên, oan khiên, xin đèn giời soi xét.

Quan Ngư Sử : Thôi, y lệnh chém đầu,(Lính khai đao)

Nữ dân oan:     Không, oan khiên, oan khiên.

Ai Cứu chàng :

     Ôi xé lòng, nỗi đau khôn tả ơ ơ, nỗi đau này biết trả sao đây

     Xin lạy trời cao, đất dày có thấu ơ ơ, nỗi oan khiên giáng đời con,

     Con người trọn đạo phu thê, thâm tình một kiếp phu thê

     Con thề trọn đạo phu thê.

Nói : Con thề trọn đạo phu thê, oan khiên, xin đèn giời soi tỏ.

Quan Ngự Sử :  Thôi được, ta cho ngươi suy cho kỹ, nghĩ cho tường về đường phạm

                          tội.

Quan Ngự Sử : (Một nhóm môn sinh thập thò ở cửa)

                         Này, đám môn sinh kia, có điều chi mà xâm xia, bàn tán

                         Không biết đây là chốn Quan Trường hay sao?

Bùi Cầm Hổ:    Dạ, muôn tâu Quan Ngự Sử, các môn sinh đang học ạ.

Quan Ngự Sử:  Các môn sinh học gì?

Bùi Cầm Hổ :   Dạ, học cách xử án cho minh bạch, trắng đen để khỏi oan khiên cho

                         dân lành vô tội ạ.                     

Quan Ngư Sử : Láo, sao lại không minh bạch, trắng đen

                         Tội giết chồng giữa thanh thiên, bạch nhật

                         Thế mà ngươi còn nói oan khiên.

Bùi Cầm Hổ :  (Nói vói các môn sinh)

                         Nghe lời người oan phụ tỏ bày, ta biết lòng đầy trắc ẩn

                         Đầy oan khiên, vương vấn thực hư

                         Nếu các Quan toà cho ta xử vụ án ni      

                         Ta sẽ xử đúng sai trọn vẹn.

Quan Ngự Sử: Thôi, hãy mau lui.(Các môn sinh ra ngoài) Lính.

Lính:                Dạ,

Quan Ngự Sử:  Đưa kẻ sát chồng giam vào ngục tối, chờ ngày hạch tội.

Lính :               Dạ. (Giải nữ dân oan ra ngoài)

Quan Ngự Sử:  (Đi lại suy nghĩ đắn đo một lúc)

                       Nghe lời người oan phụ tỏ bày, ta biết lòng đầy trắc ẩn

                       Đầy oan khiên vương vấn thực hư

                       Nếu các Quan toà cho ta xử vụ án ni, ta sẽ xử đúng sai trọn vẹn

                       Đó phải chăng là lời nói của môn sinh Cầm Hổ sao?. Lính.

Lính:              Dạ. (Vào quỳ chờ lệnh)

Quan Ngự Sử: Cho mời môn sinh Bùi Cầm Hổ vào dinh

Lính:              Dạ. (Chạy ra ngoài)

Quan Ngự Sử:  Một môn sinh mà ăn nói khẩu khí

                         Suy xét lý tình sâu kỹ hơn người

                         Khi ta xử án cậu đã cất lời

                         Nếu Quan toà cho ta xử vụ án này

                         Ta sẽ xử thẳng ngay, trái phải

                         Được, để ta xem bản lĩnh môn sinh họ Bùi, hà hà hà…

Bùi Cầm Hổ:   Trình Quan Ngự Sử, môn sinh Bùi Cầm Hổ xin được nghe lời thỉnh  

                        giáo của bản quan. (Quỳ xuống)

Quan Ngự Sử :  Khá khen, khá khen Bùi môn sinh đứng dậy.

Bùi Cầm Hổ:     Đội ơn quan Ngự Sử.

Quan Ngự Sử:   Bùi môn sinh, nếu ta đoán không nhầm năm nay Bùi Cầm chắc mười

                          tám, đôi mươi, bát sử, nồi kinh đầy vơi được mấy ?

              Bùi Cầm Hổ:    Trình lạy quan Ngự Sử,

                                       Bát sử nồi kinh đầy vơi chưa đủ

                                       Để điểm môn, khai trí cho người

                                       Mà nồi kinh, bát sử trường đời

                         Học đến hết đời mà không hết được

              Quan Ngự Sử:  Khá khen , khen thảo nào vừa mới đây thôi

                                       Ta đã nghe lời môn sinh vừa nói

                         “ Nếu các Quan toà cho ta xử vụ án này ta sẽ xử được ngay”

Bùi Cầm Hổ :   Dạ thưa quan Ngự Sử, chính Bùi môn sinh đã nói

Quan Ngự Sử:  Sa chân với lại, sa miệng không với lại.

                         Môn sinh không sợ cái miệng làm rơi cái đầu sao?

Bùi Cầm Hổ:   Thưa quan Ngự Sử, cái đầu ở trên cái miệng

                        Cái miệng thường nói theo ý cái đầu

                        Cái miệng  nói rằng :

  Hát Khuyên : Vụ án oan khiên, ngươi vợ hiền chuốc hoạ

                       Thiên hạ, bàn dân, bách tính xôn xao

                       Vụ án thật oan sai, mong đèn giời soi xét

                       Lý tình sau trước, sai đúng tỏ bày      

                       Cán cân phải thẳng ngay, rõ ràng Quốc pháp.

Quan Ngự Sử:  Thiển ý môn sinh là

Bùi Cầm Hổ:   Là môn sinh chưa làu kinh, thuộc sử

                        Vụ án này nếu môn sinh được xử

                        Mọi trắng đen, sai đúng tỏ bày.

Quan Ngự Sử: To gan, to gan, coi trời bằng vung

Bùi Cầm Hổ:   Lời nguyền :

                       Hãy tin đạo lý ở đời

                       Oan khiên đổ xuống đời người dân tội tình

                       Lý tỏ tình ngay, rành rành sai đúng

                       Phải cân đong, đo đếm nghĩ suy

                       Trái oan phân tỏ tức thì, trái oan phân tỏ tức thì

                       Tránh vòng oan nghiệt, khỏi giết đi một người.

Quan Ngự Sử:  Thiển ý môn sinh tức là

                         Một môn sinh mà dám bẻ que chọc trời

                         Lật ngược Triều Cương, phép nước

Bùi Cầm Hổ:   Dạ, thưa quan Ngự Sử dạy quá lời

                        Thiển ý môn sinh muốn lấy sự đời

                        Phải, trái, đúng sai làm lời can gián

Quan Ngự Sử:  Được, ta chờ ngươi và người vợ sát chồng kia ra trước bệ Rồng chết

                        Chém, Lính

Lính:                Dạ.

Quan Ngự Sử:  Cho dựng lại hiện trường vụ án, để xem Bùi môn sinh can gián hay rơi

                         đầu

Tiếng vọng :     Hoàng Thượng giá lâm.

            (Nhạc Lưu Thuỷ, Kim Tiền, Vua Lê đi ra, tất cả đáp lễ)

Tất cả:           Hoàng Thượng vạn tuế, vạn, vạn tuế.

Vua Lê:         Ta miễn lễ các khanh khá bình thân

Quan Ngự Sử:  Muôn tâu Bệ hạ, vụ án người vợ sát chồng

                         Do nồi cháo lươn đã rõ ràng tội trạng

                         Chém đầu để khai sáng ngu dân

                         Nay Bùi môn sinh muốn can gián độ dân

                         Xin dựng lại hiện trường để minh oan sai đúng.

Vua Lê:            Khá khen, khá khen.

                         Phép nước, kỹ cương là để an dân, trị Quốc

                         Muốn trị Quốc, an dân thì phải nghiêm minh Triều cương, Quốc pháp

                         Một môn sinh mà đã biết lo cùng Xã tắc, muôn dân

                         Biết phò Vua, can gián đúng, sai là tốt.

                         Ba quân .

Tất cả:              Dạ.

Vua Lê:            Hãy dựng lại hiện trường vụ án cháo lươn

                           Để biết lời can gián đúng, sai của môn sinh họ Bùi

                           Hãy minh tỏ trên dưới, trong ngoài được biết.

Tất cả:                Đức Vua anh linh.vạn, vạn tuế,

Quan 1:              Dạ, dạ, Đức Vua vạn, vạn tuế, luật án đã thiết rõ ràng

                           Nay xử lại e không chu toàn phép nước.

Quan 2:              Dạ, dạ muôn tâu Thánh Thượng

                           Phép nước Triều cương phải y nghiêm chấp chính

                           Buộc quan. Quân, bách tính phải thi hành

                           Thần trộm nghĩ luật án đã rõ rành

                           Nay lập lại đâu còn chu toàn phép nước.

Quan 1:              Dạ, dạ, muôn tâu chí phải, chí phải.

                           Một môn sinh chưa nấu sử, xôi khinh

                           Mà dám lật ngược Triều cương, Quốc pháp.

                           Thần thiết nghĩ, Bùi môn sinh coi trời bằng vung

                           Muốn chết cùng kẻ sát chồng một hố ạ.

Vua Lê:              Thôi, ta hiểu ý của các khanh

                          Triều Cương, Quốc pháp là của muôn dân

                           Soi cho kỹ, xét cho tường, lượm ý dưới trên

                           Tránh hoạ ngầm, oan khiên cho dân lành vô tội

                           Vụ án này dân tình đang nhiều lời đồn thổi

                           Cần phải được chứng minh sáng tối, đúng sai

                           Ba quân.

Tất cả:                Dạ.

Vua Lê:              Cho dựng lại hiện trường vụ án cháo lươn.

Bùi Cầm Hổ:      Dạ, muôn tâu Thánh Thượng anh linh, đèn giời soi tỏ

                            Đấng minh quân ngự ở bệ Rồng

                            Người thấu nỗi oan khiên xé nát cõi lòng

                            Của người vợ hiền thương chồng hết mực

                            Nồi cháo lươn tình ngay, lý ngược

                            Tội chém đầu hình luật đã ban ra

                            Nay Thánh Thượng hạ cố cho Bùi môn sinh

                            Được sửa sai vụ án, thần xin đội ơn Hoàng Thượng

Vua Lê:               Ta miễn lễ, Khanh khá bình thân.

Bùi Cầm Hổ:       Muôn tâu, đây là chứng lý vụ án thưa Hoàng Thượng.

(Cảnh chứng lý vụ án, một số người mang nồi, rổ rá bày ra)

Đại Thạch :

         Nồi cháo oan tình, oan nỗi oan khiên

         Oan khiên là nồi cháo giết chồng

         Đèn giời là giời soi tỏ ơ ơ, rắn đọc mà nhầm như lươn ơ ơ

         Cổ cao, mắt nhỏ, chấm vàng, giống lươn một họ rõ ràng

         Rắn độc nhầm lẫn, giết chồng tội oan

         Mua nhầm, bán cũng không sai.

Quan 1:       Muôn tâu Thánh Thượng, vô lý, thật là vô lý

                   Rắn độc nhầm lẫn giết chồng tội oan, mua nhầm, bán cũng không sai

                   Dạ muôn tâu, như vậy hoá ra Bùi môn sinh là kẻ chưa vắt sạch mũi

                  Mà giám phạmThượng khi quân, giám cho các Quan toà có mắt mà như

                  mù.

Tất cả:       Dạ, các quan toà có mắt như mù, không biết được đâu là lươn, đâu là rắn

                  độc

Vua Lê:    Khá khen, các quan đã tự nhận, các quan toà có mắt mà như mù

                 Không phân tỏ đâu là lươn, đâu là rắn độc

                 Hôm  nay để phân tỏ đâu là lươn, đâu là rắn độc

                 Các Khanh có giám ăn nồi cháo này không?

                Ăn để biết đâu là lươn, đâu là rắn độc.

Quan 1-2:  (Run bắn cả người) Muôn tâu Hoàng Thượng

Vua Lê:     Ta hiều, ta hiểu lòng dạ các khanh

                  Các khanh chỉ biết quen ăn bổng lộc, bạc vàng

                  Biết chui luồn nơi lầu son, gác tía

                  Nhưng không giám ăn độc tố đắng cay

                  Để giám chết vì oan khiên của dân đen, bách tính.

Bùi Cầm Hổ:   Trình ĐứcVua anh linh, đấng chí tôn cao cả

                        Loài rắn độc giống đúc như lươn, không phải có nhiều

                        Ai không biết dễ mua nhầm, bán lẫn

                        Rắn độc như lươn, khi bò cổ cất cao, thẳng

                        Mắt ty hí, thao láo khác thường

                        Thần xin giám lấy mạng sống của mình

                        Người vợ giết chồng vì nấu nhầm rắn độc

                        Cần phải được minh oan, soi xét tỏ tường.

Quan 2:           Dạ dạ muôn thưa, cần phải được minh oan soi xét tỏ tường

                        Muốn biết rắn độc hay là lươn

                        Hãy cho Bùi môn sinh ăn thử thì biết ạ.

Quan 1-2:       Dạ dạ chí phải, chí phải, cho Bùi môn sinh ăn thử thì biết ạ.

Vua Lê:          Ta hiểu ý các khanh, Bùi môn sinh nếu ăn cháo thử

                       Ai hay rằng, nếu Bùi đã uống thuốc giải trừ

                       Thôi, trước hết trong các khanh phải thử, sau đó đến lượt ta.

                       Ba quân.

Tất cả:            Dạ.

Vua Lê:          Truyền thử cháo.

(Một số người cầm những chiếc môi lớn múc cháo cho các quan thử, các quan hoảng sợ, né tránh)

Tất cả:        Hát Giặm :         

                                Đây cháo lươn rắn độc

                                Ăn để biết thương dân

                                Ăn mà chết vì dân

                                Khỏi oan khiên, oán nghiệt

                                Khỏi oan tình, oán nghiệt

                                Là quan quân trung liệt

                                Không phải ăn bổng lộc

                                Ăn cay đắng vì dân

                                Để muôn dân khang thịnh

                                Để nước nhà khang thịnh

Vua Lê:        (Cười sáng khoái) Hà hà.. Thật là chí lý, thật là chí lý.

                     Đúng là cái miệng các khanh chỉ biết quen ăn bổng lộc, bạc vàng

                     Không giám ăn độc tố vì dân mà chết. Hãy đưa ta .

Bùi Cầm Hổ:  Không.

Tứ Hoa : 

              Đức Vua ơi,

              Là Đấng minh quân, trị nước, an dân ngự ở bệ Rồng soi tỏ

              Quốc thái dân an, thái bình thịnh trị

              Xã tắc non sông trên đồng, dưới thuận

              Phép nước,Triều Cương quan quân dưới trên nghiêm lệnh

              Là Đấng chí tôn phụng mệnh nước ơ nhà.                

                   Phải tỏ đúng sai phép nước, nếp nhà

                   Phải biết muôn dân oán ca đau khổ

                   Đạo lý cương thường, cội nguồn Tiên Tổ

                   Xứng đạo Quân Vương cốt ở an dâ

Trình Đức Vua, để biết đúng hay sai nồi cháo lươn nấu nhầm rắn độc

Để minh oan cho người vợ oan khuất, xin Đức Vua cho tử tù ăn sẽ rõ.

Vua Lê:          Có lý, có lý. Lính

Lính:           (Vào quỳ xuống) Dạ.

Vua Lê:         Truyền lấy cháo cho tử tù ăn thử.

Lính:             Dạ (Chạy ra ngoài)

Quan 1:         Hè hè...Cái đầu của Bùi môn sinh cũng đáng gía nồi cháo lươn, thật rẻ.

                      hè hè…

Quan 2:         Chí phải, chí phải, hè hè…Hừ, Bùi môn sinh láo thật

                      Không sách vở, không thông kinh, vạn quyển

                      Thân cô, thế cô, không ô lọng, ẩn núp

                      Không thế gia, Quốc thích, Vương Triều

                      Mà giám làm điều khi quân, phạm thượng.

Quan 1:         Hè hè…Lại thêm một vụ án nữa, các quan toà lại no thêm

                      Bùi môn sinh kẻ can gián to gan

                      Dám lật ngược Triều cương, phép nước.

Lính:             (Vào) Dạ dạ, muôn tâu,muôn tâu,

Vua Lê:         Chứng lý thế nào hãy tỏ ta hay.

Lính:             Dạ, sau khi ăn cháo tử tù đã chết ngay ạ.

Vua Lê:         Tử tù ăn cháo lươn đã chết.

Quan1-2:    (Giật bắn người) Há, thật không, thật không?

Vua Lê:       Hỡi ba quân. Sự thật trắng đen vụ án oan sai đã tỏ

                    Bát canh Hoàng thiện oan kia đã giải

                    Ba quân hãy nghe đây.

                    Dù Quốc pháp, luật hình, Triều cương ban bố

                    Nhưng cuộc sống dân sinh mới sáng tỏ đúng sai

                    Hãy tha tội chém đầu cho người vợ oan sai

 Tất cả:        Hoàng Thượng vạn tuế, vạn, vạn tuế.

Vua Lê:       Hỡi ba quân, hỡi thần dân trăm họ

                    Nhà Lê muốn thịnh trị, muôn dân được hưởng thái bình

                    Phải có nhiều hiền tài như Bùi Cầm Hổ môn sinh

                    Khí tiết tài cao, đức lớn làm rường cột Triều Đình

                    Ba quân hãy nghe lệnh ta truyền

                    Nay trọng thưởng và ban phong Bùi Cầm Hổ môn sinh

                    Giữ chức Quan Ngự Sử Triều Đình (Ba tiếng trống vang dội)

Tất cả:        Y lệnh Thánh Hoàng.

Múa hát Niềm tin :

              Quan quân thiên hạ cùng ngợi ca

              Tài cao, đức lớn ơ ơ, nước nhà phồn vinh ơ ơ

              Nghĩa nhân trung liệt cương thường

              Nghĩa nhân trung liệt cương thường

              Kỹ cương, phép nước thái bình hoan ca

              Muôn nhà hoan ca.

                                (Ba tiếng trống điểm)

                             

                                                   Hết cảnh hai

                Cảnh ba

CHÍ QUAN TRỪƠNG

BÁ ĐÀI- TRÂM BÚT- QUYỀN HÀO

Cảnh dinh Quan Ngự Sử Bùi Cầm Hổ

Tiếng đọc thơ vọng :

          Chí Quan trường, bá đài trâm bút quyền hào

          Hồng Lam chung tú, Bùi Tướng Công thiên cổ vĩ nhân

(Bùi Cầm Hổ cân đai, áo mão đi ra trong suy tư, trầm mặc)

Cụ Từ:      Triều Lê đang buổi phân tranh

                 Quan lại tranh dành, xả hơi, chia quyền hưởng lộc

                 Hoàng Tộc phân ly, thoán đoạt lẫn nhau

                 Mạnh đoạt, yếu thua, lộng quyền tham ô, vô lại

                 Bất phân ngôi thứ, nhũng nhiễu Triều cương.

Mẫu.T.Ngàn:  Phép nước lung lay, lòng người ly tán

                       Triều nội quan quân, ca thán dân đen

                       Bên ngoài giặc Minh lăm le bờ cõi

                       Cụ Từ: Bùi Tướng Công vai trần Ngự Sử

                       Thân độc, thế cô, quyền chưa trọng, chức chưa cao

                       Muốn lương dân được trọn đạo cương thường

                       Giữ phép nước kỹ cương,vua tôi một lòng giữ nước.

Bùi Cầm Hổ:  Được ban phong chức Ngự Sử Triều cương

                       Mỗi đêm nằm tim gan ta nhói buốt

                       Bởi nhũng loạn Vương Triều, giốt nát quan quân

                       Là bậc Đại phu phải giữ đạo trung thần

                       Vững rường cột Triều Đình thật khó.

Cụ Từ:             Giữa Triều Lê trăm bề nhũng nhiễu

                        Bùi Tướng Công càng thông hiểu anh minh

                        Càng đức đại, tài ba, phụng tiết

M.T. Ngàn:      Là bậc sỹ phu tận tâm, tận huyết

                        Cương trực, công minh, cương quyết, rõ ràng

                        Không né tránh, không chui luồn, xu phụ

Cụ Từ:             Ghét những kẻ chui trên, luồn dưới

                        Văn giốt võ bất tài, ninh bợ

                        Năm 1429 vua Lê mắc phải mưu gian thần

                        Trừ khử quan thanh, tướng giỏi

                        Bức tử kiếm pháp Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo

                        Binh pháp Nguyễn Trãi, quyền pháp Lưu Nhân Chú bị giam hãm trong

                        ngục tối.

M, T. Ngàn:    Năm 1430 bắt giam Phạm Văn Xảo do mưu xảo của một số quan tham

                        Với thứ phi Phạm Thị Ngọc Trần.

Cụ Từ:         Vua Lê bắt giam “ Tể tướng khai quốc công thần nhập nội hành khiền”

                     Nguyễn Trãi.

Tiếng vọng hậu trường :   Hoàng Thượng giá lâm. (Nhạc Lưu thuỷ, Kim Tiền, Vua Lê

                     đi ra )

Tất cả:         Hoàng Thượng vạn, vạn tuế.

Vua Lê:       (Đứng trên bệ Rồng) Ta miễn lễ, các khanh khá bình thân.

                    Tể tướng khai quốc công thần nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi.

 Nguyễn Trãi:      Dạ muôn tâu có thần.

Vua Lê:               Chiểu theo Luật pháp Triều cương

                            Tội trạng của Tể Tướng không có đường đặc xá

                            Trọng tội với thứ phi Phạm Thị Ngọc Trần

                            Mưu đồ cấu kết với họ Phạm để lập lại nhà Trần

                            Hòng mưu phản xoay vần cho Triều Lê sụp đổ

                            Truyền ba quân. Chém đầu. (Ba tiếng trống điểm)

  1. V. Linh: Dạ muôn tâu Đức Vua anh linh

                            Quan Trung thừa Ngự Sử Bùi Cầm Hổ

                            Từng nổi tiếng là Đại thần chính trực, công minh

                            Biết nhìn sâu xét đoán con người

                            Ông ấy hiểu tận tâm con người Nguyễn Trãi

                            Đúng sai công bằng chính xác hơn người

                            Xin Đức Vua hãy nghe lời Bùi Cầm Hổ.

Vua Lê:               Quan Ngự Sử, ý Khanh thế nào ?

Bùi Cầm Hổ:      Tâu Bệ Hạ đấng chí tôn cao cả

                            Thần ở gần Nguyễn Trãi lâu nay

                            Được xét xem hình trạng Nguyễn Tiên Sinh

                            Chưa bao giờ nghĩ đến chuyện khôi phục nhà Trần

                            Dù ông có họ hàng, Quốc thích với Trần Nguyên Hãn

                            Mà không có mưu đồ phản loạn, muôn thưa.

Ngâm thơ:

    Ngày trước cha con Nguyễn Tiên Sinh

    Có quan hệ tương giao với Trần Nguyên Đán

    Thân sinh của Trần Nguyên Hãn

    Cha Nguyễn Tiên Sinh Là Nguyễn Phi Khanh

    Thi đỗ đạt mà nhà Trần không trọng dụng

    Rồi cả hai cha con làm Quan cho họ Hồ

    Vì họ tức thời cho rằng dòng họ Đông A đã đến thời sụp đổ

    Bởi theo họ Hồ là cứu tình, xử thế

    Khi nhà Trần khởi binh Nguyễn Trãi không ra phò tá

    Mà cùng Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn giúp Bệ Hạ,

    Bệ Hạ biết không ?

    Còn với Phạm Văn Xảo thì hai người là bạn thân nhau

    Nhưng hỏi rằng chứng cứ ở đâu, rằng Nguyễn Trãi có mưu đồ phản  loạn

    Khôi phục nhà Trần với họ Phạm ở đâu?

    Muôn tâu Bệ Hạ, đã không có chứng cứ rõ ràng

    Lại bắt giam một Tể Tướng khai quốc công thần, Nhập nội hành khiển tài ba

    Như thế thì luật pháp Xã tắc Sơn hà ở đâu ?

    Như thế thì thiên hạ phục làm sao

    Làm sao thu phục được hiền tài, hỡi Đức Vua.

Vua Lê:        Bùi Đại nhân ta hiểu, ta hiểu.

                     Bùi Tướng Công thật xứng danh Ngự Sử, tình sâu xa, lý sáng loà

                     Biện bạch, dẫn đắt chứng lý nguyên do như rồng phun châu ngọc

                     Ta tin lời trung thực của thần

                     Ba quân.

Tất cả:          Dạ

Vua Lê:        Ta xuống chiếu

                     Thả Tể Tướng khai quốc công thần Nhập nội hành khiển Nguyễn Trãi

                     Bị tước vinh lộc Đại phu, cho phục lại chức Nhập nội hành khiển

                     Bị đày đi coi Chùa Côn Sơn. (Ba tiếng trống)

Tất cả:          Y lệnh Thánh Hoàng. (Nguyễn Trãi ra lễ rồi đi vào)

Đinh C. An:        Muôn tâu Thánh Thượng, thần có sớ.

  1. Vĩnh Tích: Muôn tâu Thánh Thượng, thần có sớ. (Cả hai quỳ xuống)

Vua Lê:              Ta miễn lễ, các khanh khá tấu ta nghe.

Đinh C. An:       Dạ muôn tâu, Đại tư đồ Tể tướng Lê Sát thường ngấm ngầm

                           Cúng tế những người lính chết trận để lập đội âm binh

                           Thực hiện kế gian, mưu đồ phản loạn,  

  1. V.Tích: Tư đồ Lê Sát sàm tấu, lập mưu đày Bùi Cầm Hổ ra ải Lạng Sơn

                           Để Bùi Tướng Công không có điều kiện can gián

                           Lập mưu, dựng tội giết Cao Sư Đặng.

Đinh C. An:       Bao che, xá tội cho Trịnh Long Bá

                           Sàm tấu Đức Vua giết hại Tể tướng tài ba Trần Nguyên Hãn và Phạm

                           Văn Xảo.

  1. V. Tích: Cậy quyến uỷ thác của Tiên Đế, lộng quyến nhũng nhiễu

                           Đục khoét, ăn bổng lộc, hà hiếp dân đen

                           Thoán đoạt lẫn nhau, làm rối loạn Triều cương, phép nước.

Đinh C. An:        Tội Lê Sát không thể dung tha

                           Triều nội quan quân oán thán, kêu ca

                           Muốn Triều chính uy nghiêm, muốn Xã tắc yên hàn

                            Phải thẳng tay trừng trị hết lũ quan tham, vô lại.

Hai Quan:           Đây tấu sớ của muôn dân hạch tội Lê Sát (Dâng sớ)

Vua Lê:              Đại tư đồ Tể tướng Lê Sát

Lê Sát:                Dạ, muôn tâu có thần (Quỳ xuống ra lễ)

Vua Lê:              Ngươi đã nghe tội trạng của ngươi

Lê Sát:               Sàm tấu, sàm tấu, thưa Hoàng Thượng anh linh, sàm tấu.

Vua Lê:              Ngự Sử Bùi Cầm Hổ.

Bùi Cầm Hổ:      Muôn tâu có thần,

Vua Lê:              Ta giao ngươi hạch tội Đại tư đồ Lê Sát

                           Minh bạch tội, công theo Quốc Pháp Vương Triều.

Bùi Cầm Hổ:      Muôn tâu, thần y lệnh Thánh Hòang.

Lê Sát:                Muôn tâu. Thần một dạ đinh ninh, với Triều cương, Quốc pháp

                           Với nghĩa khí tôi trung, với Hoàng Thượng không cùng

                           Với Xã tắc non sông, một lòng trung sau trước, trung một lòng sau

                            trước.

Vua Lê:              Thôi, tấu sớ của các bản quan và muôn dân đã tỏ

                           Tôi trạng của ngươi không thể bỏ qu

                            Lộng quyền, ghen ghét, gian tà

                       Giết Lưu Nhân Chú để ra oai, trích Trịnh Khả

                       Khiến đình thần không dám nói

                       Sàm tấu đuổi Bùi Cầm Hổ ra chốn biên thuỳ, để gián quan ngậm miệng

                       Xét tội trạng của ngươi không xứng đạo làm tôi

                       Ba quân.

Tất cả:              Dạ.

Vua Lê:            Lột áo mão, giam ngục hinh, chờ hạch tội

Lê Sát:              Dạ dạ. muôn tâu, oan cho thần, oan cho thần, muôn tâu Thánh Thượng

Bùi Cầm Hổ:    Muôn tâu Thánh Thượng.

Vua Lê:             Thôi, y lệnh, lột áo mão, giam ngục hình, chờ ngày hạch tội.

Bùi Cầm Hổ:    Khoan.

Tứ Hoa :

            Đức Vua ơi, sống ở trên đời ai chẳng có một lần sa chân lầm lỡ

            Tội trạng tư đồ Tể tướng Lê Sát trời không dung, đất không tha

            Nhưng Đại tư đồ là quan Đại thần Triều nội

            Mà phải chết phanh thây thi nhục mấy mươi ơ đời

            Sống nhục, chết hèn nhục mấy mươi đời

            Hổ bậc quân vương, tôi trung tráng kiệt

            Công, tội tư đồ Đức Vua đã biết

            Cho được hồi hương và tự chết đặc ân.

Vua Lê:         Há, Bùi Tường Công Cầm Hổ nói sao?

                      Cho Đại tư đồ hồi hương và tự chết đặc ân?

Bùi Cầm Hổ: Dạ muôn tâu chí phải.

Vua Lê:         Ngự Sử Bùi Cầm Hổ, ta không quên ngày ngươi bị đày ra ải Lạng Sơn

                      Là kế độc, mưu sâu của tư đồ Lê Sát

                      Cớ sao bây giờ lại xin tha tội chết cho tư đồ?

Bùi Cầm Hổ:  Dạ muôn tâu, thần là người trọng nghĩa, khinh tài

                       Cương trực một đời, tôn sùng lẽ phải

                       Đại tín, đại nhân, sai trái phân minh

                        Sống phép khuôn nhưng rộng mở thâm tình

                        Nên biết nén hận thù để sống yêu thương.

Vua Lê:           Khá khen, khá khen

                        Quan Ngự Sử thật sáng toả Triều cương

                       Triều nội quan quân được bao người như thế

                       Thì Xã tắc, Sơn hà ắt rạng rỡ trường lưu.

                       Ta chuẩn tấu lời quan Ngự Sử.

                        Ba quân,

Tất cả:             Dạ.

Vua Lê:           Để phép nước kỹ cương, luật triều Quốc pháp

                        Để bọn gian thần khỏi nhũng nhiễu, tha hoá quan quân

                        Vì hạnh phúc muôn dân khang thái, an bình

                        Ta xuống chiếu lột áo mão, cắt chức Đại tư đồ Tể tướng Lê Sát

                        Cho hồi hương và tự chết đặc ân.

Tất cả:             Thánh Thượng vạn tuế, vạn, vạn tuế.

Lê Sát :           Trời ơi, oan  khiên, muôn tâu oan khiên, thưa Thánh Thượng.

(Ba tiếng trồng, lính lột áo mão và giải Lê Sát ra ngoài)

Vua Lê:             Tướng Công Bùi Cầm Hổ,

Bùi Cầm Hổ:    Dạ, có thần

Vua Lê: Ngâm thơ :     Ngự Sử Tướng Công,

                       Thật xứng bậc Đại thần trung liệt

                       Đã đùm bọc dưỡng nuôi Tiên Để ta từ thuở ấu thơ

                       Nay được đèn giời soi đức hạnh Tướng Công

                       Sáng ngời như Sao Khuê rực chiếu

                       Từ nay Huynh vương được đặc ân mang tên họ Bùi

                       Để tỏ lòng ân Quốc Tiên Đế hằng mong.

Bùi Cầm Hổ:  Đội ơn Hoàng Thượng.

(Ba tiếng trống vang ngân, rước các đạo sắc, nhạc Lưu Thuỷ, Kim Tiền)

Các đạo sắc:

 “ Cảnh Hưng, Cảnh Thịnh, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Khải Định”

Tiếng vọng: Nhà Bác học Lê Quý Đôn phụng thảo

“ Bùi Cầm Hổ bàn luật trung thực, chính đáng, phong độ đẹp đẽ, không những giúp Vua tiến lên con đường đạo nghĩa mà bọn công thần, võ tướng nể sợ không giám làm càn”

Tiếng vọng: Nhà Sử học Phan Huy Chú toạ viết

“ Bùi Cầm Hổ là người lấy ngay thẳng để báo oán, như thế thật hiếm có trong thiên hạ”

Tiếng vọng: Tường Đạo Sắc

“ Đặc tiến kim từ vinh lộc đại phu

   Môn hạ sảnh hữu tư hữu nạp

   Ngôn Ngự Sử Đô Đài Ngự Sử

   Khâm sai Lạng Sơn trấn yên phủ sứ tri quân

   Dân sự khinh vãng thiên Triều đại sứ

   Nhập Triều tham tri chính sự

   Thẩm hình viện phó sứ tước á trí tử Bùi Tướng Công

   Gia Phong bỉnh quân hồng trạch

   Hoằng liệt phủ quốc hiển linh

   Thuỳ huống Đại vương

   Âm dương tài kiêm văn võ chiêu hoàn nghiệp ư

   Nhập triều, xuất trấn báo công

   Sinh đức trường lưu tự điển.”

(Tiếng trống chiêng rộn ràng trang trọng, hình tượng Bùi Cầm Hổ sáng ngời giữa các đạo sắc)

                                                        Hết cảnh ba

Cảnh bốn

                                  LƯU THUỶ TRƯỜNG ÂN

                               BÁO ÂN ĐỨC THÁNH ĐÔ ĐÀI

Cảnh nhà quê dưới chân núi Bạch Tỵ, khe Thác Bạc, Bùi Cầm Hổ đã ở tuổi về già dưỡng lão, ngồi trên chõng tre, tay cầm quạt nan thư thá

Cụ Từ:     Lẫy Kiều :         

                            Đại ân Đức Thánh Đô Đài

                            Danh thần sáng giá ba đời Hậu Lê

                            Đức dày tựa ngọn Thanh Khê

                            Ơn cao Bạch Tỵ, sao Khuê sáng ngời

                 Bảy mươi tuổi, ba mươi năm làm quan qua ba đời Hậu Lê

                 Bùi Tướng Công nghỉ việc Triếu đình về quê tĩnh dưỡng

                 Thương Khe Vẹt, Độ Liêu, Kẻ Treo dân nghèo đói khổ

                 Nắng lắm, mưa nhiều mùa úng, chiêm khê

  1. T. Ngàn: Đắp Thác Bạc, Lâm Cầm phải chặn dòng con nước

                          Không để “ thượng điền tích thuỷ, hạ điền khan”

                          Nhất sỹ, nhì nông, nhất nước, nhì công

                          Hỡi muôn dân phải đắp đập, chặn dòng, khơi thông mương dẫn

                          Cho nước về đồng no ấm dân sinh.

Tất cả: (Múa hát đắp đập, khơi mương, dẫn dòng)

Làn dọc :           Khe Vẹt nay a Thác Bạc, đất Treo Vọt, Độ Liêu

                          Khe Vẹt nay a Thác Bạc, khai thông nay a dòng nước

                          Cho khoai lúa ngập đồng, dân được ấm no

                          Cùng đào mương dẫn nước nay a về đồng

                          No ấm muôn dân vui mừng

     (Cảnh nông dân dâng các nông sản lúa, khoai, lạc đậu, ngô..)

                          No ấm muôn dân vui mừng, công ơn của Thánh nhân

                          No ấm muôn dân vui mừng, câu ca thôn trên, xóm dưới

                          Tri ân mãi muôn đời, ơn Đức Thánh Đô Đài

                          Đồng lúa khoai xanh tốt, muôn dân thái bình

                          Đức đại Thánh nhân Đô Đài.

Cụ Từ:              Hãy mở Hội hát trò Đình Đụn, no cơm ấm cật, dĩ thực vi tiên

M.T.Ngàn:        Khe nhà Trò lưu thuỷ, trường ân, ngọn Bạch Tỵ tựa dân ơn muôn thuở

Tất cả: (Múa hát Sắc Bùa)

Hát trịch :        Đông khinh dị lịch, tiền định (hạ) lai xuân

                        Sắc Bùa vào quỳ sự thần (hạ) khánh chúc

Sắc Bùa :        Nhớ ơn thần lực ban truyền

                       Cho dân xã Đậu vạn niên vững bền

                       Sỹ nhờ chí Thánh đức hiền

                       Văn nho truyền đạo, bút nghiên học hành

                       Nông nhờ viên thế tài thành

                       Giáo dân, giáo sắc canh nhân bốn mùa

                       Lại nhờ Đức Thánh ta xưa

                       Khai sơn, trấn thuỷ muôn dân thái hoà

                       Lại nhờ quốc mạch sinh ra

                       Dân cư yên vị thật là đa đinh

                       Đắc tài, đắc lộc, đắc danh

                       Đa tài, đa trí xứng danh Tiên Rồng

                       Ơn dày Ngự Sử Tướng Công

                       Muôn đời con cháu quê hương ghi lòng

                       Ơn cao tựa đỉnh non Hồng

                       Đức dày nghìn trượng sánh dòng Lam Giang

                       Đại ân Đức Thánh vô vàn.

(Tất cả xếp hình tượng cuối cùng, Bùi Cầm Hổ như một ông Tiên trên cao trong tiếng trống, chiêng vang vọng linh thiêng)

 

                                          Hạ màn                     Tháng 12/2011

 

3.Vương Khả Sơn  - Nhà Giáo – Nhà Văn

 

                                       VƯƠNG KHẢ SƠN

                                         NHÀ GIÁO – NHÀ VĂN

                  HỘI VIÊN HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HÀ TĨNH

                                     Khánh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh

                                             Sinh ngày 29 tháng 9 năm 1953

                                 Quê quán:    Khánh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh

                Thuộc dòng họ Vương Khả Vương tộc Ất môn Giáp chi

                         Khánh Tường, Khánh Lộc, Can lộc, Hà Tĩn

                   Thường trú: Tổ 3, phường Nguyễn Du, TP Hà Tĩnh
              Chức vụ, đơn vị công tác: Chuyên viên sở GD ĐT Hà Tĩnh đã nghỉ hưu
                     Năm vào Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh:  2007
                                                  Chuyên ngành: Văn xuôi
                    Điện thoại: 0912487840; Email: [email protected]

                                  Năm 1971: Bộ đội chống Mỹ.
                                  Năm 1978 – 1982: Sinh viên khoa Văn ĐHSP Vinh
                                  Năm 1982- 2001: Giáo viên Ngữ Văn THPT
                                  Năm 2001- 2013: Chuyên viên sở GD&ĐT Hà Tĩnh
 
                                             Tác phẩm chính đã được xuất bản:
     - Tập hồi ký “Ký ức Chiến tranh” NXB Thanh Niên - H. 2006 ( tái bản lần thứ 5)
     - Nhiều truyện ngắn, phóng sự, bút ký, tùy bút, ghi chép…được in trên các báo và tạp chí TW và địa phương

                                           Giải thưởng văn học, nghệ thuật, báo chí:
                   - Giải A, “Giải thưởng Văn học- Nghệ thuật Nguyễn Du” (2005- 2010)

                                                         Tác phẩm tự chọn:

               THÊM MỘT THÁNH NHÂN ( Tùy bút )

 (Nhân ngày về viếng Đại tướng, nơi Người yên nghỉ)

                                                                                    

         Vậy là tôi đã thực hiện được lời hứa với Đại tướng!Rằng… "Vào thời gian sớm nhất, con sẽ về Vũng Chùa - Đảo Yến để được viếng Người tại nơi yên nghỉ vĩnh hằng; để được kính dâng lên Người nén hương thơm tưởng nhớ, tri ân..."Vâng! Đúng 8h, ngày 03/11/2013, vừa chẵn 20 ngày sau khi cả nước thương tiếc tiễn đưa Đại tướng về với lòng đất Mẹ, tôi cùng với đoàn cán bộ, công chức Văn phòng Sở GD&ĐT Hà Tĩnh đã có mặt tại Vũng Chùa - Đảo Yến, dưới chân Đèo Ngang - chỗ tận cùng trước khi dừng trước biển của dãy Hoành Sơn hùng vĩ - nơi yên nghỉ của Đại tướng kính yêu để viếng mộ Người. Chỗ này được gọi là “Mũi Rồng” cách, quốc lội 1A khoảng 4 cây số thực địa; là một vùng sơn thủy hữu tình, có rừng, có biển, có không gian lồng lộng dưới trời thu ngăn ngắt gió nồm nam cùng bãi cát trắng mịn màng và mặt nước biển xanh. Gối đầu lên sườn núi Thọ Sơn, một trong những ngọn núi tiếp giáp mặt biển nối với dãy Hoành Sơn hùng vĩ, đối diện Đảo Yến qua Vũng Chùa thơ mộng giữa trùng khơi, Người hướng ra biển Đông lộng gió như một Thánh nhân canh giữ cho bầu trời và biển đảo Tổ quốc mãi mãi thái hòa, bình yên trước

 

những những cái đầu nóng phương Bắc đang khát dầu lửa và tài nguyên giàu có của biển Đông mà thiên nhiên đã ban tặng cho Tổ quốc mình, nhưng vì nó mà đã có biết bao máu xương của các thế hệ tiền nhân trong suốt mấy ngàn năm lịch sử giữ nước đổ xuống để bảo vệ, giữ gìn. Ở thiên niên kỷ trước, vào thế kỷ XVI, "Bạch Vân cư sỹ", Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm đã từng tiên tri cho sự tồn vong của nhà Mạc cũng như các triều đại phong kiến Trịnh, Nguyễn sau này với lời sấm truyền “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Tạm hiểu: Một dải Hoành Sơn (núi ngang), muôn đời có thể náu mình, tồn tại", đây là yếu tố "địa lợi"- một trong ba yếu tố quyết định để tạo nên thời cơ. Ý rằng: Muốn tồn tại lâu dài thì phải có kế sách dựa vào điều kiện địa lý với địa chiến lược của dãy Hoành Sơn. Bậc tiên tri đã đoán trước đến thời kỳ hậu Mạc (Mạc Đăng Doanh – 1597), nhà Mạc sẽ suy, nếu Mạc muốn tồn tại, không bị diệt vong thì tất yếu phải dựa vào địa thế hểm trở của dãy Hoành Sơn (nhánh núi như một con Rồng lớn, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn Bắc, theo hướng Tây - Đông. Đây vùng đất rộng lớn, địa hình hiểm trở có tầm chiến lược sống còn, kéo dài trên 50 cây số từ địa phận các huyện Vũ Quang, Hương Khê của Hà Tĩnh đến bắc Quảng Bình mà nơi tiếp giáp hai tỉnh chính là Đèo Ngang, đâm xuyên ra đến biển) để phòng ngự xây dựng lực lượng, tồn tại lâu dài. Thế nhưng, thực tế kể cả nhà Mạc cũng như nhà Trịnh - Nguyễn sau này, vì lý do nào đó cũng đã không thực hiện được lời sấm Trạng ấy mà dẫn đến diệt vong! Từ ý nghĩa nội dung câu sấm truyền, chúng ta có thể suy rộng ra: Hoành Sơn tượng trưng cho dải đất miền Trung đầy khắc nghiệt trước thiên tai, địch họa, nắng lửa, bão giông… Tuy vậy, nơi “địa linh” này, thời đại nào cũng đều sản sinh ra “nhân kiệt” nối tiếp nhau, góp phần to lớn làm nên truyền thống văn hiến và lịch sử vẻ vang cho dân tộc mà Đại tướng của chúng ta là một trong những bậc vĩ nhân  như thế! Mãi sau này đến thời kỳ nhà Nguyễn, lúc thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng, xâm lược nước ta lần thứ nhất vào năm 1858, khi phe chủ hòa khiếp nhược vội vã đầu hàng thì phe chủ chiến - vua Hàm Nghi đã ra “Chiếu Cần vương” (giúp vua) rồi chọn vùng đất này để mộ binh, gây dựng lực lượng chống Pháp với sự mở đầu bằng khởi nghĩa của Lê Ninh. Tiếp đến là phong trào do nhà yêu nước vĩ đại Phan Đình Phùng lãnh đạo, đã trở thành tiêu biểu, khích lệ các thế hệ sau vùng lên đánh Tây, cứu nước… Từ đây, dải đất này đã trở thành nơi "dung thân" của các đạo quân hừng hực lòng yêu nước chống thực dân và bè lũ tay sai!Ở thời đại sau, sinh thời, với nhãn quan nhạy bén, sắc sảo, nhìn xa trông rộng mang tầm chiến lược của một thiên tài quân sự, Đại tướng đã có cái nhìn trùng khớp, nhất quán với lời tiên tri của Trạng Trình cũng như các bậc tiền nhân về vị trí chiến lược hiểm yếu này. Tài thao lược và kiến thức uyên thâm đã giúp Người tổng kết lịch sử chiến trận của dân tộc qua các triều đại để cuối cùng trước khi trở thành Thánh nhân, Người đã chọn cho mình nơi hiểm yếu này để tại vị như muốn tiếp tục ngày đêm canh giữ cho cõi bờ Tổ quốc được yên và nhắc nhở các thế hệ con cháu hôm nay và mai sau biết nơi đó là vùng “địa linh” của lịch sử ông cha để lại; đồng thời là sự cảnh báo răn đe đối với các thế lực bành trướng, rằng đất nước này, dân tộc này luôn tỉnh thức và cảnh giác để không bao giờ cho phép bất cứ kẻ cuồng tham nào xâm phạm dù chỉ một tấc đất thiêng liêng mà vì nó, mấy nghìn năm tổ tiên ta đã đổ máu xương đánh đuổi ngoại xâm để dựng nên cơ đồ, non sông hoa gấm hôm nay.Từ ý nghĩa sâu xa đó, tôi liên tưởng tới một câu nói hàm nghĩa triết lý thật sâu sắc, gợi cảm và đầy tính nhân văn để chứng minh rằng, người như Đại tướng lúc bình sinh cũng như lúc hiển Thánh, vẫn luôn chọn một tư thế, một trách nhiệm với những gì có thể để tiếp tục góp sức mình cho Nước  cho Dân, với ý nghĩ: “Chết chưa phải là hết, chết còn là một sự cống hiến”.Với hành động trên, Đại tướng của chúng ta đã hoàn toàn đúng! Và Người đã trở thành một Thánh nhân!Không chỉ là Thánh nhân lúc cầm quân đánh bại những kẻ thù xâm lược hùng mạnh nhất thế giới trong thế kỷ XX, mà Người còn là Đức Thánh nhân khi được người đời “phân công” làm công việc "Kế hoạch hóa gia đình"(!?), cái công việc bình thường mà ai đó cũng có thể làm được. Vậy nhưng vị Đại tướng mà cả nhân loại tiến bộ ngưỡng mộ đã phải gánh vác công việc này (?!) Nhưng vị trí nào, làm gì và ở đâu với Người, có gì là quan trọng! Cái quan trọng là được cống hiến thật nhiều, cống hiến suốt đời, thậm chí lúc lâm chung rồi vẫn tiếp tục muốn được hiến dâng cho Dân cho Nước! Bởi bất cứ hoàn cảnh nào Người cũng luôn tự tại, tự tin!                      

Nhưng có một điều tôi tự hỏi, tại sao trước lúc lâm chung Người không muốn yên nghỉ ở Mai Dịch như thông lệ của bao người, cũng như không muốn về chốn cố hương mà lại chọn mảnh đất Vũng Chùa – Đảo Yến? Hẳn Người có những nỗi niềm sâu kín của  riêng mình? Tìm hiểu và suy nghẫm sâu hơn một chút, tôi đã có thể mạo muội  hiểu được phần nào lý do này! Tại sao Người không chọn nơi cắt rốn, chôn rau (Lộc Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình), nơi tổ tiên và bậc sinh thành của Người đang an giấc ngàn thu để làm nơi vĩnh hằng yên nghỉ của mình? Lý do gì mà Người không chọn vùng đất An Mã - trung trung nhất huyệt long mạch ở Lệ Thủy, nơi có những bậc hào kiệt như Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, nhà khai canh Hoàng Kế Viêm, quan đại thần triều Nguyễn Ngô Đình Khả (thân sinh Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm)? Hẳn Đại tướng có những dự tính thiên tài mà người bình thường không thể đoán định? Người đã chọn Mũi Rồng - Vũng Chùa (xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình) dưới chân Hoành Sơn làm nơi an nghỉ đời đời. Ngoài các yếu tố phong thủy hiếm có, quân sự tối quan trọng thì hẳn còn có các yếu tố tâm linh huyền bí? Mảnh đất Lệ Thủy (thượng An Mã, hạ Đùng Đùng được tương truyền có một cái huyệt lớn), long mạch vượng đã phát sinh nhiều nhân tài cái thế như Nguyễn Hữu Cảnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm, v.v...
Mà theo quan niệm dân gian thì “trần sao, âm vậy”, “ma cũ bắt nạt ma mới”. Mảnh đất này đã có mộ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, mộ nhà khai canh Hoàng Kế Viêm, lại thêm mộ cụ Ngô Đình Khả (thân sinh Ngô Đình Diệm) có lẽ vì vậy mà Đại tướng không muốn về nơi đó nữa (?!). Bởi “nhất quốc bất khả nhị vương” (một nước không thể hai vua); một vùng đất nhỏ hẹp không thể chen chúc nhiều ngôi mộ của các bậc công thần, khai quốc? Phải chăng, Đại tướng  không muốn nằm chung với bất kỳ ai trong số họ? Đặc biệt là người của gia đình họ Ngô (?!) Người cũng không muốn tranh giành long mạch với họ mà chọn cho mình một mảnh đất riêng để làm nơi an

nghỉ!?
           Chúng ta còn nhớ sử sách ghi lại. Tương truyền trong tấu thư về địa lý của Cao Biền gửi vua Trung Tôn nhà Đường nói về các huyệt đạo của Đại Việt, tuyệt nhiên không được nhắc đến huyệt đạo nào ở Lệ Thủy. Điều này được giải thích rõ rằng, thời

Cao Biền làm tiết độ sứ cai quản Giao Châu (quận Giao Chỉ tức Đại Việt sau này), cương thổ của Đại Việt chưa bao gồm Châu Địa Lý (Lệ Thủy). Trên đỉnh núi An Sinh (Trốc Vực) xưa, dân Quy Hậu có lập đền thờ Cao Biền, nay mất dấu tích, song trong “Ô Châu cận lục” vẫn còn ghi đại ý Cao Biền được lệnh của những kẻ cầm đầu ở phương Bắc sang yểm trừ tất cả những nơi có huyệt đạo, long mạch có thể xuất hiện nhân tài từ châu Bố Chính (Bố Trạch, Quảng Trạch) trở ra. Nhưng Cao Biền đã không biết hay vô tình bỏ qua rất nhiều vùng đất "tụ khí thiêng" sinh ra nhân tài cho Giao Chỉ. Y chưa biết vùng đất Lệ Thủy có long mạch để đến yểm bùa. Vì thế, vùng đất này về sau đã sản sinh ra nhiều nhân tài xuất chúng như Võ  Nguyên Giáp, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu... Châu Bố Chính bị yểm rồi nhưng lại để sót Vũng Chùa - Đảo Yến. Ngay cả trên Google, trước ngày Đại tướng mất cũng chưa tìm thấy địa danh này.Trước khi Đại tướng lâm chung, ai dám cam đoan rằng, hậu duệ của Cao Biền không cho người bí mật sang Mai Dịch hay xuôi về Lệ Thủy để yểm bùa triệt long mạch, để chặn mạch nguồn sản sinh nhân tài đất Việt? Ai dám cam đoan, đâu đó ở Lệ Thủy không có một thứ bùa yểm như ở Đền Hùng - Phú Thọ mà mới đây báo chí đã loan tin?...
Từ quyết định chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc thắng chắc” ở trận Điện Biên Phủ; từ quyết định giải phóng Trường Sa ngay sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, khiến cho những kẻ cuồng tham phương Bắc trở tay không kịp, đến quyết định chọn Vũng Chùa - Đảo Yến làm nơi an nghỉ vĩnh hằng đã cho thấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một thiên tài có tư duy hoàn toàn độc lập, “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, chính trung thấu hiểu lòng người”. Là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, luôn được ở gần Bác nên Đại tướng rất am tường địa chính trị, địa kinh tế và địa phong thủy!?
        Với phong thái tự tin, thể hiện khí phách của một dân tộc có truyền thống chống ngoai xâm bất khả chiến bại khi trả lời phỏng vấn của báo chí phương Tây, Người khẳng định: "Từ "lo sợ" không có trong tư duy quân sự của quân đội chúng tôi!" Macdonald, Đại tướng, sử gia người Anh từng ca ngợi: "30 năm trước khi nổ ra Thế chiến I, ngày 25/8/1911 ở làng An Xá (tỉnh Quảng Bình) gần vĩ tuyến 17 đã sinh ra một con người sẽ là một trong những người hiếm hoi làm chuyển dịch dòng chảy của lịch sử. Người ấy sẽ xuất hiện trước toàn thế giới như một vị tướng của một quân đội sơ khai nhưng đã chiến thắng hai cường quốc phương Tây. Đó là đại tướng Võ Nguyên Giáp...". Còn nhà báo kiêm sử gia người Mỹ thì nói: "Tài năng chiến lược của Tướng Giáp đã đặt ông vào ngôi đền của những nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại. Sau Hồ Chí Minh, ông là nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 20... Ông ấy giống như một vị thánh. Không có gì khiến ông phải chấp nhận thất bại."
Còn Đại tướng của chúng ta thì luôn khẳng định trước báo giới ngoại quốc: "Chiến thắng của chúng tôi là chiến thắng của quân đội và nhân dân Việt Nam anh hùng..."
Và chính điều này góp phần cắt nghĩa để tôi hiểu rằng, giờ đây khi hiển Thánh, Đại tướng lại trở về với đất Mẹ yêu thương, nơi 103 năm trước, Người chào đời để rồi sau đó đi suốt dặm dài lịch sử, xuyên dọc thế kỷ XX, qua các cuộc trường chinh khói lửa;

đánh bại những kẻ thù hung bạo và hùng mạnh nhất hành tinh để lấy lại đất nước cho con cháu hôm nay và làm rạng danh Tổ quốc; tiếp tục gìn giữ trọn vẹn non sông của tiền nhân trao lại.

          Đức khiêm nhường, tự tại đã làm cho Người càng vĩ đại hơn! Người nằm đây như cỏ cây, sông nước, như lẽ tự nhiên trong cõi vô thường. Nhưng Vũng Chùa - Đảo Yến, một vị trí địa chiến lược, trong một tương lai gần hứa hẹn sẽ là điểm du lịch tâm linh; sinh thái và lịch sử nổi tiếng; sẽ là nơi “về nguồn” của mọi tầng lớp nhân dân cả nước cũng như kiều bào đang sống xa Tổ quốc. Và cũng từ đây cái tên Vũng Chùa - Đảo Yến sẽ trở nên quen thuộc, gần gũi và thân thương hơn bao giờ hết đối với mỗi người dân đất Việt cũng như bạn bè năm châu mỗi khi đến với Quảng Bình, quê hương Người. Và đó cũng chính là điều đến bây giờ tôi mới vỡ lẽ và cắt nghĩa được, vì sao Người lại chọn cho mình mảnh đất này để yên nghỉ!
Rồi đây, các ngành lịch sử, bảo tàng di sản, tâm linh, nghiên cứu tiềm năng con người sẽ còn phải có nhiều pho sách lớn, nhiều công trình nghiên cứu quy mô dành

cho Người và viết về Người - vị Đại tướng hòa bình - thiên tài quân sự lỗi lạc của nhân loại; về anh Văn - Đại tướng của nhân dân - một nhân cách lớn, mặc dù xưa nay có không biết bao nhiêu tài liệu, sách báo, phim ảnh cùng nhiều loại hình nghệ

thuật khác đã tôn vinh Người!
      Và đâu chỉ người dân trong nước kính trọng, ngợi ca, mà cả nhân loại tiến bộ đều ngã mũ trước Người - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Người anh hùng dân tộc. Hình ảnh hàng triệu người dân già, trẻ, lớn, bé đứng hai bên vệ đường để khóc vĩnh biệt, tiễn đưa Người khi đoàn xe tang đi qua đã minh chứng về tấm lòng triệu người như một, tôn kính, tiếc thương, bái vọng vị Đại tướng kính yêu của mình. Người chính là biểu tượng sinh động cho sức mạnh, cho tinh thần Đại đoàn kết toàn dân tộc - một sức mạnh bất khả chiến bại trong mọi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cũng như dựng xây đất nước! Việc Đại tướng đi xa đã làm cho 90 triệu con dân nước Việt cùng nắm tay, xích lại gần nhau hơn!
          Ở thế kỷ XIII của thiên niên kỷ trước, khi đạo quân Nguyên Mông xâm lược hùng mạnh nhất thế giới với gót ngựa chiến hung bạo, đã từng dẫm nát cả châu Âu và hầu hết phần đất châu Á, vậy mà 3 lần đặt lên đất nước ta, là 3 lần “hồn xiêu, phách lạc”, đại bại mang đầu máu chạy về biên kia biên giới, sau khi đã bỏ lại hàng chục vạn xác chết, cả tướng lẫn binh cùng ngựa chiến trên mảnh đất nhỏ bé này!
Đại thắng của quân và dân Đại Việt đã làm tiêu ma ý chí xâm lược bởi những cái đầu nóng của lũ giặc Nguyên Mông đầy tham vọng. Buộc chúng phải từ bỏ vĩnh viễn dã tâm ăn cướp nước ta trong tiếc nuối và khiếp sợ!
Và đĩnh đạc bước ra từ đại thắng vang dội ấy, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã trở thành vị Thánh đầu tiên của dân tộc - Đức thánh Trần. Sang thên niên kỷ này, tiếp theo Đức thánh Hồ - Chủ tịch Hồ Chí Minh, đất nước ta lại có “Thêm một Thánh nhân” - Đức Thánh Võ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp muôn vàn kính yêu!


       Ký ức chiến tranh - Hồi ký Vương Khả Sơn, CCB trung đoàn 271.

 Chúng tôi trở lại cứ Tân Phú một thời gian không lâu sau đó.Đêm 27 tháng 5, một đêm tối trời, chúng tôi gần một trung đội gồm cả bộ đội và du kích xã Tân Phú vào ấp để lấy gạo và làm công tác dân vận. Trong đội hình hành quân đêm ấy có Phạm Khắc

Đính. Đính đi trước tôi chừng 25 mét. Vào đến giữa ấp, chúng tôi ai cũng nghĩ: thế là an toàn rồi. Vì thông thường, bọn địch chỉ phục kích ở bìa ấp mà thôi, ít khi chúng phục kích giữa ấp. Đang đi... Bỗng nhiều ánh chớp láo mắt và tiếng nổ chát chúa phía trước đội hình. Mảnh bay rào rào. Có tiếng la của bộ đội và du kích bị thương. Chúng đánh toàn lựu đạn mà không hề bắn một phát súng nào. Tôi nghe rõ tiếng Đính: "Sơn ơi, tao bị thương rồi!". Tiếp theo lại tiếng lựu đạn nổ gần chỗ Đính. Địch ném tiếp vào chỗ có tiếng la. Chờ dứt tiếng nổ, tôi vội nhào lại, dùng tay bịt mồm cậu ta lại, rồi rít qua kẽ răng: "Im mồm! Tao đưa ra! Mày la nữa, nó bồi tiếp lựu đạn, chết cả lũ!". Đính im bặt. Tôi ghé sát tai Đính nói nhỏ: "Bị thương ở đâu thì lấy tay bịt chặt vết thương lại!". Tôi xốc nách Đính, bảo nằm lên lưng mình, tay phải xách B40 và giá đạn ba trái của tôi cùng AK của Đính, rồi quàng tay trái giữ Đính trên lưng, chạy ra. Máu Đính rơi trên vai tôi nóng hổi. Được khoảng 50 mét, chúng tôi gặp ngay một cái hố. Cả hai nhào xuống. Vừa lúc ấy, bọn địch tung pháo sáng lên, rồi xả súng bắn vào những người đang chạy dạt ra phía sau. Tôi bảo Đính: "Yên trí! Nếu

M79 hoặc lựu đạn rơi vào hố thì cả hai cùng chết. Đạn thẳng thì yên tâm". Lợi dụng ánh hoả châu, tôi băng cho Đính. Cậu ta bị một mảnh lựu đạn găm vào gò má bên trái, máu tuôn ra đầy mặt. Tôi bảo Đính bỏ tay ra (từ nãy đến giờ, Đính dùng ngón tay bịt chặt vết thương). Máu chảy tràn lên mặt. Tôi lấy băng buộc chặt vết thương, cầm máu cho Đính trong khi đạn vẫn chíu... chíu... trên đầu. Bây giờ, tôi mới có thì giờ quan sát. Chúng tôi đang đứng giữa một cái hố khoảng 6 mét vuông đầy gai tre, cao đến ngực. Dân chặt tre xong, quẳng gai xuống gần đầy một hố. Cơ thể chúng tôi bị gai đâm nát bét hết mà không hề thấy đau. Tiếng cối 81 ly và pháo địch giã theo phía anh em mình vừa chạy ra sau. Tôi cầm AK của Đính, cảnh giác đề phòng bọn địch có thể liều lĩnh xông tới. Nhưng chúng không dám. Chờ cho cối và pháo chuyển làn, tôi đẩy súng và đạn lên bờ, sau đó ngồi xuống bảo Đính đứng lên vai mình rồi nâng dậy để cậu ta leo lên bờ (hố sâu ngập đầu chúng tôi). Tôi trèo lên sau, bảo Đính: "Thôi an toàn rồi, bây giờ cậu bá vai tớ, tớ dìu đi, chứ không thể cõng được nữa! Mệt quá rồi!". Đính nghe theo, cậu ta quàng chéo AK vào vai rồi cà nhắc bước theo tôi. Men theo hướng đường cũ, quay lại. Đến một nhà dân, chúng tôi vào gõ cửa nhưng không ai dám ra, vì sợ. Tôi biết lúc này họ đang ở dưới hầm (trảng xê) trong nhà. Chúng tôi gặp mấy anh em vừa chạy đến, họ cho biết đã có mấy đồng chí hy sinh nhưng không lấy xác ra được. Trận ấy bọn địch xảo quyệt, ném toàn lựu đạn mà không hề bắn viên đạn nào nên ta không xác định được vị trí để phản kích. Đến lúc chúng tung pháo sáng lên, phát hiện ra anh em mình thì đồng loạt nổ súng. Lúc ấy, chúng tôi bị động hoàn toàn, đành phải rút lui...Sau ngày hoà bình trở về, tôi và Đính kể lại trận đánh này cho ông bà Cư (ông bà cụ thân sinh Đính) nghe, họ xúc động: "Gia đình ơn con để đâu cho hết, nếu không có con cõng ra thì giờ đây đâu còn thằng Đính. Con là người đã sinh ra nó lần thứ hai cho bố mẹ đó!". Từ đấy, ông bà và gia đình coi tôi như con đẻ.
Bây giờ thì Phạm Khắc Đính không còn nữa! Tai nạn giao thông đã cướp đi mạng sống của Đính. Trớ trêu thay! Chiến trường gian khổ, bom đạn ác liệt như vậy mà không hy sinh, nay trở về trong thời bình, Đính lại chết trong oan ức, tức tưởi. Ngày Đính mất, tôi đến thắp hương khấn, rồi khóc và nói những điều này trước mộ cậu ta...
 Trận ấy, chúng tôi hy sinh và bị thương 9 đồng chí. Có 3 đồng chí du kích hy sinh, trong đó có Hồng (tên thật là Mò) và Trớ. Bình sinh, Hồng thường tâm sự với tôi.

Hồng cho biết gia đình có 5 người con (Lần, Mò, Trong, Giỏ, Trắng). Hồng là con thứ hai. Chúng tôi thường gọi là Ba Hồng. Nghe Hồng kể nhà Hồng ở gần Lộc Giang. Trước đó, Hồng và tôi đã tham gia trận đánh phục kích trên Gò Nổi, gần đồn Lớn.

 

Chúng tôi ngồi chung công sự. Hồng rất dũng cảm. Anh phụ trách mìn ĐH10. Chờ bọn địch vào gần mới điểm hoả, xé nát đội hình địch. Số còn lại tạt ngược vào chỗ chúng tôi, Hồng và tôi dùng AK và B40 tiêu diệt những tên chạy vào gần công sự. Nhớ nhất là hình ảnh lúc chờ địch vào, mặt Hồng đỏ gay, mồ hôi chảy thành dòng trên má. Khi nổ súng, tự nhiên mặt tái xám lại.Hồng hy sinh ở tuổi 19. Theo nguyện vọng của gia đình, chúng tôi bí mật chuyển thi hài anh về để gia đình an táng tại quê nhà.
Khác với Hồng, Trớ lại là con út của một gia đình cách mạng cũng ở Đức Hoà. Trớ kể, gia đình cậu có 7 anh chị em (Đang, Ngồi, ỉa, Cứt, Chảy, Trấn, Trớ). Trước đó hai người anh ruột đi giải phóng cũng đã hy sinh. Bây giờ đến Trớ. Tôi còn nhớ như in, Hồ Hữu Danh (quê Sơn Hàm, Hương Sơn, Hà Tĩnh) lúc nào gặp Trớ cũng trêu đùa về 7 cái tên gọi ngộ nghĩnh của gia đình cậu ta. Như vậy, đến thời điểm đó, gia đình Trớ đã có ba người con hy sinh vì Tổ quốc. Một tổn thất quá lớn đối với một gia đình!
 Có thể nói, giai đoạn từ sau Hiệp định Pari đến đó, liên tục chúng tôi phải đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác nhau. Đây là thời kỳ vô cùng căng thẳng và ác liệt. Tổng số quân thương vong cũng rất lớn, tuy cục bộ từng trận thì không nhiều. Quân số không những không được bổ sung mà ngược lại còn bị tiêu hao qua các trận đánh. Duy nhất, tiểu đoàn chúng tôi chỉ được bổ sung một đợt quân gồm những đồng chí được phía nguỵ quyền Sài Gòn trao trả sau Hiệp định Paris mà ta gọi là lực lượng "Chiến thắng". Đại đội tôi được bổ sung gồm anh Năm (quê Thái Bình), anh Hà, anh Đức (quê Bắc Thái) cùng một số anh em khác nữa... Họ là những người không may bị Mỹ nguỵ bắt làm tù binh trong các trận chiến đấu ở những năm trước đây. Sau Hiệp định Paris, lần lượt được trao trả tại Lộc Ninh (Bình Long) hoặc một số địa điểm khác tại Tây Ninh hoặc Long An do hai bên quy định. Trong số đó, Đức được bổ nhiệm làm B phó (trung đội phó). Sau này (1974), anh hy sinh ở trận Gò Nổi.Chúng tôi đã từng tham gia bảo vệ cho các đợt trao trả tù binh như vậy của hai phía từ sau Hiệp định Pari tại khu giải phóng thuộc bưng Đức Huệ. Tuy nhiên, ít khi phía chính quyền Sài Gòn chấp hành nghiêm chỉnh quy định. Ngược lại, chúng luôn lật lọng và tìm cách phá hoại. Khi thì chúng không đến đúng hẹn, khi thì dùng phi pháo tấn công vào nơi quy định trao trả rồi đổ quân hòng đánh úp chúng ta. Chúng tôi đã nhiều lần chạm trán với bọn này nên hết sức cảnh giác và đương nhiên là chúng bị giáng trả quyết liệt.
Gần hai tuần sau đó, chúng tôi lại được lệnh vào lại Tân Phú. Cũng như lần trước, đơn vị phối hợp với du kích cùng vào ấp để lấy gạo và làm công tác tuyên truyền. Đêm ấy, sau khi vào đến bìa ấp, trung đội chúng tôi chia ra hai mũi. Một mũi theo đường thẳng vào ấp, còn chúng tôi, rẽ vòng sang trái và hẹn gặp nhau tại một địa điểm đã định trước. Cánh chúng tôi vừa đi được khoảng 300 mét thì bỗng phía bên kia loé lên mấy ánh chớp liền đó là những tiếng nổ lớn của mìn clâymo. Tiếp theo là AR15, M79 cùng tiếng lựu đạn. Chúng tôi biết là các đồng chí bên đó bị địch phục kích rồi. Nhanh chóng, mọi người vận động nhanh rồi vòng lên đón đầu, phục chờ chúng quay về. Sau khi bắn chết mấy đồng chí của ta, chúng ném xác xuống giếng của dân rồi đốt mấy đống rơm gần đấy. Cách đó không xa, sau ánh lửa, chúng tôi thấy khá rõ bọn địch đi lại lộn xộn. Chúng không ngờ còn có một bộ phận chúng tôi ở bên này. Chúng tôi

triển khai đội hình mai phục chúng ở con đường mà thường ngày, xe trâu qua lại đã thành rãnh. Hai bên, dứa dại mọc ngang tầm đầu. Chừng 10 phút sau, chúng bắn rộ lên theo hướng ra bưng, rồi im lặng, nhanh chóng rút khỏi chỗ đó. Bọn địch đi ngang qua trước mặt chúng tôi chừng 40-50 mét theo mấy bờ ruộng dân đã gặt xong từ lâu. Trời

tối nên chúng tôi không nhìn thấy nhưng nghe chúng nói chuyện với nhau những gì không rõ. Mặc dù chủ động nhưng do địa hình mới lạ lại bị dứa che mất tầm nhìn nên đến lúc địch đi ngang qua trước mặt, chúng tôi vẫn chưa triển khai xong đội hình, lại còn vô ý gây ra tiếng động nên bị chúng nổ súng bắn trước. Từ chủ động trở thành bị động, chúng tôi bắn trả được mấy loạt rồi rút theo đường cũ. Bọn địch vừa bắn vừa lùi ra xa và gọi pháo từ Hậu Nghĩa nã theo hướng chúng tôi. Tuy không ai bị thương nhưng cũng bị một phen chạy bở hơi tai. éến 11giờ đêm, chúng tôi mới quay lại được nơi các đồng chí ta bị địch phục kích. Tất cả có 6 người hy sinh (có một nữ du kích) bị chúng ném hết xuống giếng. Chúng tôi phải dòng dây rồi thả người xuống để đưa thi thể họ lên. Một giếng nước, máu của các đồng chí chúng ta nhuộm đỏ lòm.

    Chúng tôi nhanh chóng chuyển các đồng chí hy sinh ra rìa bưng rồi giao cho du kích Tân Phú lo khâm liệm, mai táng trước khi trời sáng. Có thể nói, đối với chúng tôi, đây là một trận thất bại không đáng có. Bọn địch hôm đó không ai khác là đại đội thám sát ác ôn 773 của tiểu khu Hậu Nghĩa. Chúng đã từng phục kích, bắn chết 13 đồng chí Chiến sỹ thi đua của Trung đoàn hồi tháng 6 năm 1973 tại bưng Đức Huệ. Sau trận này, chúng tôi tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm một cách thẳng thắn. Xem thất bại này là một nỗi đau và vết nhục trong lịch sử tác chiến sau Hiệp định Paris của tiểu đoàn. Hôm đó, chỉ cần tỉnh táo một chút, chúng tôi đã tiêu diệt gọn đại đội thám sát 773 khét tiếng ác ôn này để trả thù cho đồng đội rồi

 

 

Ký ức chiến tranh - Hồi ký Vương Khả Sơn, CCB trung đoàn 271

 

Chúng tôi lại quay về Gò Nổi. Nhiệm vụ chủ yếu lúc này vẫn là bám, nắm theo dõi tình hình địch ở các đồn bốt mới lấn chiếm. Đồng thời, lúc cần thiết thì tổ chức đánh nhỏ, lẻ nhằm tiêu hao lực lượng và ngăn chặn không cho chúng tiếp tục đóng thêm các đồn bốt khác.
Hôm ấy, tôi, Nguyễn Hữu Dĩnh (quê Sơn Thịnh, Hương Sơn), cùng Chu Văn Lương (quê Quỳnh Lưu), nhận nhiệm vụ bám địch ở đồn Lớn (Lộc Giang). Cách đồn chừng 600-700 mét có một cây mức (lồng mức), tán lá rất dày và xanh. Chúng tôi thường trèo lên đó để quan sát địch từ ngay trong sân. Địch ra đến đâu, chúng tôi bám theo rồi rút đến đó. Đến chỗ thích hợp, bất thần nổ súng vào đội hình địch, tiêu diệt một số tên rồi rút lui.
Tôi trèo lên cây lồng mức từ sáng sớm. Khoảng 7 giờ, đã thấy bọn lính đi lại lố nhố trong sân đồn khá đông, tôi nghĩ: "Hôm nay chắc chúng càn ra". Đang mải nghĩ

phương án chặn đánh bọn này nếu chúng nống ra, bỗng có tiếng đề pa (tiếng nổ đầu nòng) rất tròn của cối 81 ly. Nhưng tôi đoán có lẽ chúng bắn đâu đó. Bỗng, rít... xoẹt... ầm...! Một tiếng nổ lớn cách gốc cây lồng mức chừng 3- 4 mét, gần dưới chỗ tôi ngồi. Khói trắng cuộn bốc lên che kín tán lá. Tôi biết ngay là trái cối điểm (chỉ điểm mục

tiêu). Lợi dụng khói, tôi nhảy đại ngay từ trên ngọn cây chừng 4 mét xuống đất, chụp vội khẩu B40 dựng ở gốc cây, miệng hét: "Lương, Dĩnh đâu? Chạy!". Cả ba chúng tôi cắm đầu chạy như ma đuổi khỏi chỗ trái khói vừa nổ. Kinh nghiệm cho hay, nếu không nhanh chóng rời ngay khỏi đám khói đó thì chỉ một hai phút sau, cối sẽ cấp tập vào ngay. Đúng như chúng tôi dự đoán, chạy được chừng 300 mét thì cối từ đồn Lớn liên tục dội xuống chỗ khói vừa bốc lên. Hú vía! Tôi nói với Lương và Dĩnh: "Nếu quả đạn ấy mà là cối mảnh thì giờ đây chắc chúng mình đã nằm lại dưới gốc cây lồng

 

mức cả rồi!" Cả ba cùng cười ngặt nghẽo rồi rút về cứ. Hôm đó, bọn địch nống ra Gò Nổi thăm dò, nhưng chúng sợ, không dám liều lĩnh mò vào. Có lẽ, qua ống nhòm, địch phát hiện ra tôi ngồi trên ngọn cây. Có lẽ khi ngồi trên đó, ngọn cây rung lắc nhiều quá, làm chúng chú ý.
 Mấy hôm sau, trung đội lại tổ chức vào Lộc Giang thực thi nhiệm vụ dân vận và móc nối với cơ sở để lấy gạo, thực phẩm và thuốc men. Hôm ấy, tôi bị mệt do vừa đi công tác về nên trung đội không bố trí vào ấp. Khoảng 4 giờ chiều, trời mưa, anh em tranh thủ bám địch để đi sớm hơn dự định. Lưu Xuân Tiết (quê Hoàng Quế, Đông Triều, Quảng Ninh - B trưởng) hôm ấy cũng bị cảm không vào ấp cùng anh em được, nên đã cử Nguyễn Văn Từ, B phó, quê Quảng Xương, Thanh Hóa, đi thay.
 Bây giờ, ở cứ chỉ còn tôi và Tiết. Về chiều, mưa càng nặng hạt. Chúng tôi bụng ai cũng cồn cào vì đói mà gạo thì đã gần hết. Tôi nghĩ, trong khi anh em đi công tác, họ cũng đang đói, mình ở nhà nấu cơm ăn một mình, không nỡ. Tôi bàn với Tiết: "Thôi, ông đang mệt, ở nhà, tôi đi nhổ sắn về, anh em mình luộc đánh chén cho đỡ đói." (ở Gò Nổi, dân cách mạng họ trồng mỳ (sắn) không nhằm mục đích thu hoạch mà chủ yếu lấy cớ đi làm, để liên lạc, cung cấp tin tức cho cách mạng. Mặt khác lo lương thực tại chỗ cho bộ đội, du kích phòng khi không có tiếp tế).

    Cởi bỏ hết đồ dài, trên mình chỉ độc một chiếc quần đùi, quàng thắt lưng với một quả "da láng" MK8 (lựu đạn mỏ vịt của Mỹ), một dao găm và một sợi dây dù (dây võng), tôi len lỏi giữa nhừng lùm cây lúp xúp để đến được nương mỳ. Cách chỗ tôi nhổ mỳ chừng 500 mét, có một cái bốt mới đóng trái phép, bốt Lộ 8. Tôi trông khá rõ thằng lính gác ngồi trên mi- đo (chòi gác). Còn nó, không để ý chỗ tôi. Hơn nữa do trời mưa, tôi lại luồn lách, lom khom đi giữa đi giữa những luống mỳ nên có chú ý cũng không thể thấy được. Tôi đã nhổ được một ôm khá to rồi. Đang định ra về, chợt nhìn sang bên cạnh, thấy một luống, cây rất tốt, nghĩ bụng: "Có lẽ củ to và nhiều lắm đây!" Vội bước lên một lùm cỏ xanh rờn để qua bên đó nhổ thêm vài gốc nữa. Ôi! Tôi bỗng thấy hun hút... hun hút... như đang rơi vào khoảng không. ùm...! Rồi chìm nghỉm xuống dưới mặt nước, sau đó tôi trồi lên. Tôi biết mình đã bị rơi xuống một cái giếng bỏ hoang lâu ngày. Ngước mặt nhìn lên miệng giếng, tôi thấy cỏ đã phủ kín và nước mưa nhỏ long tong trên mặt. Tôi nghĩ nhanh: "Thế là hết! Mình sẽ vĩnh viễn gửi lại bộ xương nơi lòng giếng này!". Tôi gắng sức hét lên một

tiếng thật to thử xem có ai có thể nghe được không? Nhưng tiếng hét của tôi không thể lọt ra khỏi lòng giếng. Lúc này, tôi thức sự hoảng loạn. Có lẽ, trong quãng đời quân ngũ, chưa bao giờ tôi lại bị cú "sốc" tinh thần lớn như vậy. Kể cả những lúc bom đạn ác liệt và đối mặt với cái chết đến trong khoảnh khắc, tôi vẫn không nao lòng. Bởi lúc ấy, có đồng đội bên cạnh. Còn giờ đây, tôi thực sự đơn lẻ. Chẳng có ai ở gần tôi. Nỗi

trống vắng xâm lấn tâm hồn và làm cho tôi hoảng sợ thực sự...Tuy nhiên, trạng thái tâm lý ấy cũng nhanh chóng qua đi, nhường lại là sự tỉnh táo. Một phản xạ tất yếu của người lính từng hứng chịu mưa bom bão đạn như tôi và trước sự lựa chọn giữa cái chết với sự sống, tôi nghĩ nhanh: "Mình không thể chết đói,

chết rét dưới lòng giếng này được! Nếu không còn phương án nào khả dĩ thì mình sẽ rút chốt lựu đạn để kết thúc cuộc đời, trước khi cái chết mòn kéo đến!". Tôi nổi trong lòng giếng như con ếch và tiếp tục nghĩ cách thoát ra. Bất chợt một tia hy vọng loé lên

trong đầu. Tôi nghĩ nhanh: "Người dân ở đây, khi đào giếng thường đào bậc so le hai bên thành giếng để tiện lên xuống" (đất ở Gò Nổi có kết cấu khá vững chắc, rất nhanh phong hoá). Tôi sờ tay vào thành giếng. Đúng như dự đoán. Hai bên đều có bậc. Nhưng lâu ngày nên bậc bị mòn và rêu bám trơn tuột. Tôi chợt nghĩ: "Mình sẽ dùng dao găm đào bậc để lên. Vậy là không chết nữa rồi!". Tôi thầm reo lên và thấy tinh thần phấn chấn vô cùng. Nó như động lực, tiếp thêm sức mạnh cho tôi. Lấy hơi, tôi hụp lặn xuống mò dao găm dưới đáy giếng. Tôi rùng mình khi chạm phải một cái cọc sắt khoảng phi 12 ở giữa lòng giếng.....

 

4.Vương Kim Đức – Thầy thuốc Ưu tú

 

                                       VƯƠNG KIM ĐỨC

                                          THẦY THUỐC ƯU TÚ

                                     Khánh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh

                                                 Sinh năm:  1964

                         Quê quán:    Khánh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh

                Thuộc dòng họ Vương Khả Vương tộc Ất môn Giáp chi

                         Khánh Tường, Khánh Lộc, Can lộc, Hà Tĩn

      Chức vụ:       Chủ tịch Công Đoàn

              Trưởng khoa Nội Tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh;

                                    Trình độ:     Bác sĩ chuyên khoa II

                                     Danh hiệu :    Thầy thuốc Ưu tú

            Nơi công tác: Khoa Nội Tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Tĩnh.

          Điện thoại :    0916 846 846 – Gmail: [email protected]

 

5..  Vương Khả Nhâm  – Thầy thuốc – Ưu tú

 

                                           VƯƠNG KHẢ NHÂM    

                                                THẦY THUỐC ƯU TÚ

                                          Thạch Liên, Thạch Hà, Hà Tĩnh

                                                       Sinh ngày   1952

                                Quê quán:    Thạch Liên, Thạch Hà, Hà Tĩnh

                   Thuộc dòng họ Vương Khả Thạch Liên, Thạch Hà, Hà Tĩnh

  Trú quán: Thôn Gia Ngãi I, xã Thạch Long, huyện Thạch Hà , tỉnh Hà Tĩnh;

   Điện thoại: 0912938289, Gmail: [email protected] ;

   Trình độ đào tạo: Sau đại học;

   Nghề nghiệp: Bác Sỹ;

   Chức vu:   -   Trưởng phòng Y tế huyện,             

      -   Bí thư Đảng ủy Bệnh viện Đa khoa huyện (Trung tâm Y tế huyên);

  Chủ tịch Công đoàn Trung tâm Y tế huyện Thạch Hà;

      Quá Trình công tác:

  • Từ 9 /1973 -9 /1974: Học viên Trường Cảnh sát Trung ương- bộ Nội vụ,
  • Từ 9/1974 – 3/1981:Học viên Trường Đại học Quân Y- Bộ quốc phòng,
  • Từ 3/1981 – 9/1981: Học Bác sỹ pháp y tại Viện khoa học hình sự- Bộ Nội vụ,
  • Từ 10/1981 – 7/1985: Công tác tại Công an tỉnh QN-ĐN làm Bác sỹ pháp y và trạm xá Công an tỉnh,
  • Từ 7/1985 - 12/2005: chuyển ngành về Bệnh viên Đa khoa huyện Thạch

Hà, tỉnh Hà Tĩnh: Làm Chủ nhiệm khoa, Trưởng Phòng kế hoạch; kiêm Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công đoàn Bệnh viện ĐK huyện (Trung Tâm Y tế huyện), UVBCH Liên đoàn Lao động huyện Thạch Hà;

  • Từ 1/2006 – 12/2012: Được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Y tế huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh;
  • Từ 1/2013 : Nghỉ hưu theo chế độ và làm Bác sỹ khám chữa bệnh hợp đồng;

      Khen thưởng:

  • Được Chủ tịch nước tặng: Danh hiệu Thầy Thuốc Ưu tú (2011);
  • Huân chương lao động hạng III (2012);
  • Bằng khen của Thủ Tướng Chính phủ (2009);
  • Bằng khen Bộ Y tế (2003,2005);
  • Bằng khen của UBND tỉnh Hà Tĩnh : 14 cái ;
  • Bàng khen của Công Đoàn ngành Y tế Việt nam (2000) ;
  • Bằng khe của Liên Đoàn Lao động Hà Tĩnh : 5 cái) ;
  • Các huy hiệu : Kỷ niệm chương vì sự nghiệp y tế, kỷ niệm chương vì sự nghiệp Dân số, Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Công Đoàn, Kỷ niệm chương vì sự nghiệp CCB ;

      Đề tài nghiên cứu khoa học :Đề tài « Đánh giá hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu dựa vào cộng đồng » tại huyện Thạch Hà  từ năm 1999 – 2010.

Đề tài được Hội đồng khoa học huyện nghiệm thu ngày 04 tháng 6 năm 2011, xếp loại : Khá

 

6.Vương Đình Chữ - Nhà Báo

 

                                     VƯƠNG ĐÌNH CHỮ  

                                                  NHÀ BÁO

                                       Thành phố Hồ Chí Minh

                                  Sinh ngày  7 tháng 12 năm 1946

                         Quê quán:    Đức Ninh, Đức Thọ, Hà Tĩnh

                    Thuộc dòng họ Vương Đức Ninh, Đức Thọ, Hà Tĩnh

                    Nơi công tác:  Toà Giám Mục Thành phố Hồ Chí Minh

                        Điện thoài : 0903 110 140

                Gamil :  [email protected]

 

-         1966-1970: Đại học Đà Lạt. Văn bằng: Cử nhân Triết học.

-         1971-1975: Chuyên viên Ủy ban Quốc gia Nhân lực

-         5/75 – 10/1976: Nhân viên Sở Lao Động TP. HCM.

-         1977-2006: Nhà báo. Từ 1995-2006: Phó Tổng Biên tập Báo Công giáo và Dân tộc

-         Công trình nghiên cứu: Lịch sử Giáo phận Vinh, 2 tập

 

7.Vương Tú Ngọc – Ca Nương – Thạc Sỹ Báo chí

 

                                            VƯƠNG TÚ NGỌC

                             CA NƯƠNG CA TRÙ - THẠC SỸ BÁO CHÍ

                                                            Hà Nội

                                                      Sinh năm :  1985

                              Quê quán :  Khánh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh

                      Thuộc dòng họ Vương Khánh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh

                           Học vị :   Đại học Văn hoá  -  Thạc sỹ Báo chí học

                                              Nghệ Danh :   Ca Nương

Điện thoại : 0912 707 489     -  Gmail: 

Thành Tích :   1 Huy chương Vàng, 1 Huy chương Bạc Liên hoan Ca Trù toàn quốc

                         Đơn vị công tác: Tập đoàn Truyền thông Legroup Việt Nam

                             Chức vụ :   Trưởng phòng Dự An cấp cao

 

8.Vương Khả Qúy  - Bác sỹ - Phó Giám đốc Bệnh viện

 

                                       VƯƠNG KHẢ QUÝ

                                                      VƯƠNG KHẢ TIẾN

                             BÁC SỸ - PHÓ GIÁM ĐÔC BÊNH VIỆN                    

                         ĐA KHOA HUYỆN HƯƠNG SƠN - HÀ TĨNH 

                                   Khánh Lộc – Can Lộc – Hà Tĩnh

                                                         Sinh năm :   1960                    

                    Quê quán    Khánh Lộc – Can Lộc – Hà Tĩnh 

                 Thuộc dòng họ Vương Khánh Lộc – Can Lộc – Hà Tĩnh

                 Chỗ ở hiện nay:  Thị trấn Hương Sơn – Hà Tĩnh 

                 Đơn vị công tác:  Bệnh viện đa khoa huyện Hương Sơn – Hà Tĩnh

                 Trình độ đào tạo: Đại học Y Hà Nội – Chuyên Khoa 1 – Ngoại khoa –  

                 Chuyên khoa 1-  Sản khoa

                 Chức vụ:           Phó Giám đốc

                    Điện thoại: 0982 516 126 – Gmail:

 

  1. QUẢNG TRỊ
    1. Vương Khánh Hồng – Nhà Báo – Nghệ Sỹ nhiếp ảnh

 

                                 VƯƠNG KHÁNH HỒNG

                                                    NHÀ BÁO – NGHỆ SỸ

                                                Thái Lan

                                                          Sinh năm : 1943

                       Quê quán:   xã Phước Điền, Hải Lăng,  Quảng Trị

                                                Sinh quán:   Thái Lan

                                        Thuộc dòng họ Vương Quảng Trị

                          Vương Khánh Hồng: Từ một chiến sĩ đến người nghệ sĩ

      Vương Khánh Hồng chào đời vào năm 1943 trên đất Thái Lan, trong gia đình một nhà cách mạng người Việt hoạt động ở nước ngoài, gốc Quảng Trị. Năm 1961, ông trở về Tổ quốc mình khi vừa tròn 18 tuổi. Từ đó gia đình ông định cư tại thành phố biển Hải Phòng cho đến lúc ra đi, ngày 26/3/2018. Thời kỳ năm 1968, cũng như bao nhiêu thanh niên khác thời bấy giờ, theo tiếng gọi của Tổ quốc Vương Khánh Hồng rời Công ty Nhiếp ảnh Hải Phòng lên đường nhập ngũ và trở thành phóng viên nhiếp ảnh của Cục Chính trị Bộ Tư lệnh 559.

Nhà báo, nghệ sĩ Vương Khánh Hồng sinh ra và lớn lên vào giữa thế kỷ 20, thời kỳ mà Việt Nam bị đế quốc ngoại bang xâu xé, nhân dân cả nước phải đứng lên làm cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành độc lập dân tộc. Nhu cầu ghi lại

những sự kiện xảy ra trên chiến trường làm tài liệu lúc này là cấp thiết. Nhiều nhà nhiếp ảnh của ta đã trở thành những phóng viên chiến trường. Những hình ảnh của cuộc chiến, sự hy sinh dũng cảm, lòng quả cảm của người lính trong chiến tranh ngày ấy hiện lên trên không gian hai chiều của những tấm ảnh mang đến cho người xem một sự cảm động sâu sắc.

Nhớ lại những năm tháng ngoài mặt trận, Vương Khánh Hồng nói đó là quãng đời đẹp nhất, đáng tự hào nhất của ông và Trường Sơn cũng làm nên tên tuổi cho ông - nhà Nhà nhiếp ảnh Vương Khánh Hồng. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã từng nói “Trường Sơn đông nắng tây mưa/Ai chưa đến đó như chưa hiểu mình”. Tài năng và phẩm giá của ông đã bộc lộ ở nơi này. Nơi tuổi trẻ ông sống gắn bó với Trường Sơn, gắn bó với những đơn vị bộ đội, với từng trạm giao liên, với những chiến sĩ công binh mở đường, chiến sĩ vận tải ngày ngày gùi hàng ra tiền tuyến, với những rừng cây trụi lá, với

những ngả đường nham nhớ khói đạn bom.7 năm, hơn 2000 ngày đêm lăn lộn trên khắp các nẻo đường  Trường Sơn, ống kính của ông đã  ghi lại nhiều khoảnh khắc đẹp, chân thực, nhiều sự kiện,  nhiều câu chuyện về cuộc sống chiến đấu gian khổ, hào hùng ở nơi này. Các bức ảnh của ông đã trở thành tài liệu lịch sử, tài sản quý của Trường Sơn, với những hình ảnh rất đáng khâm phục của các nữ chiến sĩ đơn vị xăng dầu với gương mặt rạng rỡ bước đi hiên ngang dưới khung trời mây trắng trong bức ảnh “Chiến sĩ gái đơn vị xăng dầu trên đường Trường Sơn”; Sức sống kỳ diệu của những người lính chiến, bất chấp đạn bom bắn phá đêm ngày của “Đoàn xe vận tải vượt trọng điểm đưa hàng ra tiền tuyến”, “Xe từ trường bọc thép của công binh đang phóng từ rà phá bom mìn trên trọng điểm đường Tây Trường Sơn” hay “Tổ trinh sát "Công Binh" trên trọng điểm đỉnh đèo ''Tha Mé '' Nam Lào”. Còn “Sức sống và vẻ đẹp của Trường Sơn” lại là một biểu hiện của sự lãng mạn và niềm tin tất thắng của một chiến sĩ cầm máy ảnh như ông! Người ta cũng thấy Vương Khánh Hồng dành nhiều tình cảm cho vị tướng “huyền thoại” trong tác phẩm “Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu bộ đội và những cánh rừng Trường Sơn”. Ông còn để lại hàng ngàn tấm ảnh của mình cho Bảo tàng Trường Sơn. Cũng vì những tấm ảnh như thế mà thế giới biết đến Trường Sơn của Việt Nam như một tượng đài kỳ vĩ, kiêu hãnh tạc vào đá núi như bản hùng ca giữ nước của một dân tộc anh hùng. Tổ quốc đã ghi nhận công lao và tài năng của ông, Vương Khánh Hồng đã được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012.

       Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trường Sơn Vương Khánh Hồng sinh năm 1944. Cha anh hoạt động cách mạng ở Thái Lan nên sinh anh ở đây. Cha anh quê gốc ở xã Phước Điền, Hải Lăng, Quảng Trị.Năm 1961, khi 18 tuổi, anh cùng gia đình về nước trong đợt hồi hương của Việt kiều tại Thái Lan. Anh cùng gia đình về sống tại số 15/45 phố Đinh Tiên Hoàng, quận Hồng Bàng, TP. Hải Phòng từ đó cho tới nay.
     Năm 1968, khi đang là cán bộ của Công ty Nhiếp ảnh Hải Phòng, anh nhập ngũ và vào Trường Sơn. Vào chiến trường, anh trở thành phóng viên nhiếp ảnh của Cục Chính trị Bộ Tư lệnh 559.2000 ngày lăn lộn trên khắp các nẻo đường của chiến trường Trường Sơn, ống kính máy ảnh của Vương Khánh Hồng đã kịp ghi lại nhiều khoảnh khắc đẹp, chân thực, nhiều sự kiện, nhiều gương mặt cán bộ, chiến sĩ thuộc nhiều binh chủng và thanh niên xung phong Trường Sơn trong cuộc sống và chiến đấu gia khổ, ác liệt... Nhiều bức ảnh của anh đã trở thành vô giá, là tài sản quý về Trường Sơn. Cùng với nghệ sĩ Nhiếp ảnh Trường Sơn Hoàng Kim Đáng, Vương Khánh Hồng là 2 nghệ sĩ nhiếp ảnh có nhiều ảnh đẹp, ảnh quý về Trường Sơn nhất Việt Nam. Trường Sơn đã làm nên tên tuổi của Vương Khánh Hồng. Chính những bức ảnh quý về Trường Sơn đã giúp anh vinh dự được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012, với Cụm ảnh “Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh những năm đánh Mỹ”: Chiến sĩ gái đơn vị xăng dầu trên đường Trường Sơn; Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu bộ đội và những cánh rừng Trường Sơn; Đoàn xe vận tải vượt trọng điểm Km 33 đường “K” Tây Trường Sơn; Xe bọc thép phóng từ rà phá bom mìn trên trọng điểm đường Tây Trường Sơn; Tổ trinh sát “Công binh: trên trọng điểm đỉnh đèo “Tha Mé” Tây Trường Sơn-Nam Lào; Sức sống và vẻ đẹp Trường Sơn. Anh còn nhận được nhiều giải thưởng khác:    -“Chiến sĩ gái đơn vị xăng dầu trên đường Trường Sơn” (giải nhất Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1974  -“Mở đường qua ngầm” ( giải

nhất Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1975)  -"Cánh tay công nghiệp" (Huy chương Bạc Liên hoan ảnh nghệ thuật khu vực Đồng bằng Sông Hồng lần thứ VIII)... Khi khánh thành Bảo tàng Đường Hồ Chí Minh (khai trương vào dịp 40 năm ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn, tháng 5 năm 1999), anh Vương Khánh Hồng đã hiến tặng 600 tấm phim quý về Trường Sơn. Dịp kỷ niệm 50 năm Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn, anh tiếp tục trao tặng tiếp, tổng cộng 2 lần là 1.000 tấm phim gốc về Trường Sơn. Trường Sơn được Vương Khánh Hồng coi là quê hương thứ hai của mình và tự hào nói đến nó như nói đến quãng đời đẹp nhất, đáng tự hào nhất của mình.  Trở về từ Trường Sơn với quân hàm thượng úy, anh lại tiếp tục công tác tại Công ty Nhiếp ảnh Hải Phòng cho tới khi nghỉ hưu. Cả đời Vương Khánh Hồng gắn bó với sự nghiệp nhiếp ảnh.  Trong con mắt của đồng đội, đồng nghiệp, Vương Khánh Hồng là người nhỏ nhẹ, khiêm tốn và thân thiện. Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Hoàng Kim Đáng - tổ trưởng tổ phóng viên ảnh Trường Sơn đã có lần nhận xét về người đồng chí, đồng đội, đồng nghiệp Vương Khánh Hồng, rằng: “Vương Khánh Hồng là người có nghiệp vụ tốt, chụp giỏi, rất xông xáo, năng nổ, có ý thức kỷ luật cao. Anh được gọi là “ngọn cờ hồng” của Phòng Tuyên huấn, Cục Chính trị  Bộ Tư lệnh Trường Sơn”.  
       Ban Liên lạc Ngành Tuyên huấn Trường Sơn họp mặt truyền thống, ít khi nào anh Vương Khánh Hồng vắng mặt. Ngày 7.4.2018 tới đây, những người làm công tác tuyên huấn ở Trường Sơn sẽ không còn được thấy anh nữa rồi! Anh ra đi, nhưng hình ảnh về anh và những bức ảnh quý vô giá về Trường Sơn của anh còn mãi!

   Những người lính Trường Sơn - đồng đội, đồng chí của anh không bao giờ quên Nghệ sĩ nhiếp ảnh Trường Sơn Vương Khánh Hồng của mình...

 

XII. THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

  1. Vương Hồng Sển - Nhà Văn hóa – Học giả

                                                VƯƠNG HỒNG SỂN

                                       NHÀ NGHIÊN CỨU VĂN HOÁ

                                          NHÀ VĂN HOÁ – HỌC GIẢ

                                                       Sóc Trăng

                                         Sinh ngày 27 tháng 9 năm 1902.

                              Bút hiệu Anh Vương,Vân Đường, Đạt Cổ Trai

                              Thuộc dòng họ Vương Thành phố Hồ Chí Minh

 

    Là một nhà Văn hoá, học giả, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng, ông được xem là người có hiểu biết sâu rộng về Miền Nam. Khi chính ông đã hiến tặng ngôi nhà (Vân Đường phú) và toàn bộ bộ sưu tập đồ cổ của mình cho cho Nhà nước Việt Nam, tổng cộng 849 cổ vật khác nhau, với hy vọng thành lập một bảo tàng mang tên ông.

Năm 2003, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp thành phố ngôi nhà này, tại địa chỉ số 9/1 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

Ông Vương Hồng Sển mất ngày 9 tháng 12 năm 1966, tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 2003, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định xếp hạng di tích lịch sử cấp thành phố ngôi nhà này, tại địa chỉ số 9/1 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường 14, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

Ông Vương Hồng Sển mất ngày 9 tháng 12 năm 1966, tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngôi nhà của ông ở số 9/1 đường Nguyễn ThiệnThuật, Quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, là do ông bỏ công tìm kiếm và mua nguyên căn nhà cổ kính từ vùng ven Sài Gòn về dựng lại và gần nửa thế kỷ sống tại đó. Ông đã bỏ nhiều công sức để tạo bồi cho căn nhà quý mang dáng dấp cổ xưa với những vật liệu trên trăm năm. Ngày 5 tháng 8 năm 2003, Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành quyết định xếp hạng ngôi nhà này là di tích cấp thành phố và di tích kiến trúc nghệ thuật nhà cổ dân dụng truyền thống. Tuy nhiên vì không được quản lý bảo quản đúng mức nên ngôi nhà “ Di tích” đã bị xuống cấp trầm trọng, và cho đến năm 2012, ngôi nhà vẫn bị chiếm dụng và biến thành quán ốc sầm uất. Bảo tàng mang tên Vương Hồng Sển vẫn chưa khởi động.

Nhưng tác phẩm tiêu biểu của Vương Hồng Sển

  • Thú chơi sách 1960
  • Sài Gòn năm xưa 1960 – 1992
  • Hồi ký 50 năm nghe hát 1968
  • Phong lưu cũ mới 1970
  • Thú chơi cổ ngoạn 1971
  • Chuyện cười cổ nhân 1971
  • Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa 1972
  • Cảnh Đức trấn đào lục 1972
  • Cuốn sổ tay của người chơi cổ ngoạn 1972
  • Hơn nửa đời hư 1992
  • Tạp bút năm nhâm Thân 1992
  • Khảo về đồ sứ từ hậu Lê đến sơ Nguyễn 1993
  • Tạp bút năm Quý Dậu 1993
  • Tự vị tiếng Việt Miền Nam 1994
  • Nủa đời còn lại 1995
  • Thú ăn chơi
  • Khảo về Hát Bội

Và hàng chục bản thảo khác chua biên tập xuất bản

 

  1. Vương Huyền Cơ - Tác gia kịch bản

 

                                VƯƠNG HUYỀN CƠ

                                                TÁC GIA KỊCH BẢN

                                                      Thành phố H

                                                        Sinh ngày

                                   Quê quán:  Thành phố Hồ Chí Minh

                           Thuộc dòng họ Vương Thành phố Hồ Chí Minh

Tác giả Vương Huyền Cơ: Viết kịch bản bằng cảm xúc từ cuộc sống

Là một trong những nữ tác giả có khả năng sáng tạo nhanh, đã và đang có kịch bản "phủ sóng" kín sân khấu Kịch Sài Gòn, Nụ Cười Mới và Nhà hát Sân khấu 5b với một loạt vở ăn khách như Trai nhảy, Phận làm trai, Xóm gà, Quỷ, Cậu bé triệu đô, Cổ tích một chuyện tình, Hồn ma báo oán, Tình cha, chờ người... Vương Huyền Cơ là nữ tác giả đầu tiên ba năm liền (2006, 2007, 2008) đoạt giải Cù Nèo Vàng (do báo chí bình chọn). Hỏi chuyện, chị bảo, tranh thủ viết khi "lửa nghề" đang cháy...

cả gia đình chị đã định cư ở nước ngoài, Vương Huyền Cơ ở lại TP Hồ Chí Minh

 Là cây bút “ăn khách” của làng kịch Sài Gòn, từng được giải Cù nèo vàng với những kịch bản hài hước, mang đậm hơi thở cuộc sống. Vừa qua, tác giả Vương Huyền Cơ đã có dịp đến thăm Trường Sa. Chị cho biết: “Nhân chuyến đi này Bộ Tư lệnh Hải quân có đặt hàng cho các tác giả viết về biển đảo để chuẩn bị cho năm 2015 kỷ niệm 60 năm thành lập binh chủng Hải quân. Cá nhân tôi đã hoàn thành xong kịch bản, chờ cảm xúc lắng lại, có nảy thêm ý tưởng hay nào khác để chỉnh sửa rồi gửi đi”.

Với hơn 20 vở kịch về đề tài chiến tranh, người lính, chống tham nhũng… dàn dựng trên màn ảnh nhỏ, nên đề tài chính trị - xã hội không là cánh cửa khó bước qua đối với chị.

“Đã là kịch thì đề tài nào cũng phải đem lại cảm xúc thật sự cho khán giả, muốn được vậy bạn phải viết bằng trái tim và cả tấm lòng. Cá nhân tôi có góc nhìn và tư duy khá mới về đề tài biển đảo nên kịch bản hy vọng sẽ mang hơi thở thời đại chứ không sáo mòn cũ rích. Tôi không viết kịch để “cúng cụ”, dự Liên hoan” - tác giả Vương Huyền Cơ chia sẻ.

Khi được hỏi: Những đề tài biển đảo quê hương ngoài việc để tuyên truyền, có thể khai thác nó lâu dài trên sân khấu chuyên nghiệp được không? Cần có những yếu tố nào để những tác phẩm dạng này không còn là “cúng cụ”? Vương Huyền Cơ cho biết: “Đề tài biển đảo nếu viết thật sự hấp dẫn, câu chuyện nhân vật cuốn hút thì khán giả vẫn hoan nghênh và ủng hộ. Các cơ quan như Sở VH,TT&DL, Thành ủy, Ban Tuyên giáo nên có động thái ưu ái đầu tư cho các sân khấu nào sang dấn thân vào đề tài này. Hãy ủng hộ họ bằng hành động thực tiễn. Đừng khen ngợi chung chung…”.

Mấy năm gần đây, tác giả Vương Huyền Cơ trở nên khá quen thuộc với nhiều khán giả yêu sân khấu. Chị viết kịch bản sân khấu khá đều tay, liên tục được các sân khấu, đài truyền hình chọn dàn dựng. Chị là nữ tác giả đầu tiên 3 năm liền đoạt giải Cù Nèo Vàng (2006, 2007, 2008) do nhiều phóng viên viết về văn hóa nghệ thuật của các báo, đài bình chọn.

- PV: Ba năm liên tục đoạt giải Cù Nèo Vàng, chắc chị phải nỗ lực rất nhiều mới có thể giữ vững “phong độ” như thế?

Tác giả Vương Huyền Cơ lại đoạt giải Cù nèo Vàng

TP - Giải Cù nèo Vàng năm 2010 vừa được báo Tuổi trẻ Cười công bố với giải thưởng dành cho cặp đôi Thành Hội- Ái Như và tác giả Vương Huyền Cơ.

Năm nay, cặp diễn Thành Hội- Ái Như thực sự gây bất ngờ bởi cả 2 thường được biết tới với những vở diễn tâm lý, tình cảm. Tuy nhiên, trong năm 2010 với vở diễn “Mua bảo hiểm tình” cặp đôi này đã nhận được rất nhiều lời khen từ khán giả lẫn đồng nghiệp bởi Mua bảo hiểm tình tuy là vở diễn hài nhưng sâu lắng, thông điệp của vở diễn lại khá mạnh mẽ.Với Vương Huyền Cơ thì đây là lần thứ 4 chị đoạt giải thưởng này. Vở “Ông ngọai bà nội” qua góc nhìn về cuộc sống của những người lớn tuổi, Vương Huyền Cơ đã khéo léo khai thác tâm lý tình cảm của những người già cô đơn để ra đời thêm một vở hài đầy tiếng cười.Lễ trao giải Cù nèo Vàng 2010 dự kiến diễn ra ngày 20-1 tại Nhà hát Bến Thành- Quận I- TP HCM.

   1.Vương Cảnh – Nghệ sỹ Cải lương

 

                               VƯƠNG CẢNH

                                        NGHỆ SỸ CẢI LƯƠNG

                                        Thành phố Hồ Chí Minh

                                                Ngày sinh:  1960
                                   Quê quán :Thành phố Hồ Chí Minh

                        Thuộc dòng họ Vương Thành phố Hồ Chí Minh

 

Đó không phải là vai diễn mới của nghệ sĩ Vương Cảnh mà là việc thật bởi anh vừa mở quán Bánh xèo Việt Nam tại 70/1B Quang Trung, phường 8, quận Gò Vấp, TP.HCM, khai trương ngày 30/4/2009. 
    Vương Cảnh cho biết trong thời buổi sân khấu cải lương đang gặp khó khăn như hiện nay thì kinh doanh cũng là một cách xoay trở để người nghệ sĩ “kiếm vốn” mà tiếp tục theo đuổi đam mê nghệ thuật. Quán của anh chủ yếu phục vụ thực khách ba món: Bánh xèo thường, bánh xèo đặc biệt và bánh xèo chay. Trong tháng khai trương quán sẽ giảm giá 10%. Thời gian tới chắc hẳn Vương Cảnh sẽ rất bận rộn khi vừa phải lo việc kinh doanh vừa phải biểu diễn phục vụ khán giả. Vương Cảnh vừa có một vai

diễn hay là anh nông dân khù khờ cà lăm Út Thừa trong vở cải lương Sau lũy tre làng ra mắt Sân khấu 179 Bình Thới và gần đây anh cũng cộng tác cùng đạo diễn Thành Bỉ trong vai trò biên tập cho chương trình Sân khấu cải lương và Tiếng tre xanh của Nhà Văn hóa Thanh niên TP.HCM. 
    Nam NS Vương Cảnh từng nổi tiếng các tỉnh miền Tây khi hát chánh với nữ NS Kim Lệ Thủy (khoảng năm 1985). 
    Năm 1990, anh về đoàn CL Thanh Nga hát chánh với nữ NS Cẩm Tiên trong vở tuồng Duyên chị tình em (Hay Nàng Út ống tre). 
    Năm 1991, Vương Cảnh về đoàn CL Trung Hiếu hát chánh với nữ NS Phượng Hằng.
    Năm 1992 - 1993, Vương cảnh về đoàn 2 nhà hát Trần Hữu Trang hát chung với Khánh Linh, Cẩm Tiên, Thanh Nga. 
    Năm 1994, anh về đoàn Sài Gòn 3 lần lượt hát chánh với Kim Thoa, Dạ Hương. 
    Khoảng năm 1995, Vương Cảnh về đoàn tuồng cổ Minh Tơ hát trong một thời gian ngắn. 
    Tuy về thành phố hát chánh nhiều năm và hát với nhiều cô đào nổi tiếng nhưng sự nghiệp của nam NS Vương cảnh không có nhiều vai diễn đặc sắc. Trong mắt khán giả, anh vẫn chưa thật sự là kép có thể sánh ngang với Châu Thanh hay Linh Tâm.

                         

XIII. AN GIANG

  1. Vương Trung Hiếu - Nhà Văn – Nhà Báo – Dịch giả

 

                                             VƯƠNG TRUNG HIẾU

                                   NHÀ VĂN – NHÀ BÁO – DỊCH GIẢ

                                                  Bangkok, Thái Lan

                                                    Sinh năm :   1959

                                   Quê quán :  Long Xuyên – An Giang

                                    Làm việc tại :   Bangkok, Thái Lan

    Vương Trung Hiếu là một nhà vănnhà báodịch giả, nhà nghiên cứu đa ngành. Ông có bằng thạc sĩ về khoa học lịch sử; hiện đang sống và làm việc tại Bangkok, Thái Lan. Tính đến năm2007, ông đã xuất bản trên 200 quyển sách thuộc thể loại biên soạn,dịch thuật và tiểu thuyết. Tên thật cũng là bút danh chính của ông, ngoài ra ông còn bút danh Uyên Uyên, Thoại Sơn.

Vương Trung Hiếu sinh ngày 7 tháng 9 năm 1959 tại An Giang. Khi bé, ông sống tại Long Xuyên với cha mẹ, cả hai đều là nhà giáo trong một gia đình với 8 người con, mà ông là con trưởng. Ông học tiểu học ở Trường Nam Long Xuyên, trung học ở Trường Thoại Ngọc Hầu. Sau năm 1975, gia đình ông dời về quê ngoại ở huyện Thoại Sơn, An Giang. Năm 1977, do muốn sống ở quê nhà nên ông thi vào Trường Cao đẳng Sư phạm An Giang, học khoa Văn. Sau khi học xong, ông lại muốn nâng cao kiến thức hơn nữa nên xin gia đình cho đi học tiếp. Trong thập niên 1980, ông cùng các em lần lượt vào học những trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh.

Ông tốt nghiệp cử nhân Anh văn và Ngữ văn Việt Nam của Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minhthạc sĩ khoa học lịch sử - Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1991. Vương Trung Hiếu thành thạo tiếng Anhtiếng Pháp và chữ Hán. Ông bắt đầu viết văn và viết báo từ năm 1987, ông có nhiều bài đăng trên các báo Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí MinhTuổi TrẻPhụ Nữ, các tạp chí VănKiến thức Ngày nay và một số báo, tạp chí khác ở Thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương thuộc Nam bộ. Vương Trung Hiếu cư ngụ tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1983, đến năm 2011 vợ chồng ông sang học tập và làm việc tại Bangkok, Thái Lan [1].

Ông chịu ảnh hưởng của học giả Nguyễn Hiến Lê và có nhiều đóng góp cho thể loại Sách học làm người. Ông phát biểu: "Viết báo là bước thử sức để được đến những trang viết thuộc mảng đề tài mà ngay từ khi còn là học sinh phổ thông rồi sinh viên, tôi đã ôm ấp Sách Học làm người.

Khi nhỏ ông đã hâm mộ học giả Nguyễn Hiến Lê. Ông kể:

"Ngay từ hồi còn nhỏ ở Long Xuyên, lâu lâu có một vị khách đã có tuổi ghé thăm gia đình. Nhìn bề ngoài, cách ăn mặc, dáng vẻ của ông khách cũng như bao con người ở quê ông, điều ngạc nhiên đến tò mò của một đứa trẻ như ông là thấy cha mẹ mình tiếp đón ông khách rất chân tình nhưng luôn "dạ-thưa" đầy sự tôn kính. Sau này ông mới biết rằng ông khách ấy chính là học giả Nguyễn Hiến Lê. Thời trẻ, mẹ ông đã trọ học 5 năm ở nhà Nguyễn Hiến Lê nên gia đình ông và gia đình Nguyễn Hiến Lê khá thân thiết".

Ông thật sự bị cuốn hút vào các quyển sách của Nguyễn Hiến Lê, vào những năm học cuối cấp phổ thông ông đã say mê nghiền ngẫm những điều trong Sách Học làm người và quyết tâm đi theo con đường mà Nguyễn Hiến Lê đã đi, nghĩa là học Nguyễn Hiến Lê để "viết" và viết cũng là để "học". Điểm khác nhau là Nguyễn Hiến Lê thường biên dịch sách của một nhà tư tưởng, còn Vương Trung Hiếu thì tổng hợp tư liệu từ sách báo tiếng Việttiếng Anhtiếng Pháp

   - "Trước khi trở thành nhà văn, nhà biên soạn và dịch thuật, Vương Trung Hiếu là một nhà báo năng nổ với nhiều bài viết giàu tính thời sự, chất nhân văn, yếu tố học thuật. Các bài viết của anh xuất hiện đều đặn trên các trang báo ở Thành phố Hồ Chí Minh, ở An Giang quê anh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Để cống hiến được nhiều cho sự nghiệp, Vương Trung Hiếu xác định phải học, học từ thực tế cuộc sống, học từ truyền thống, lịch sử dân tộc, học để hoàn thiện kiến thức chuyên môn. Sau nhiều năm chuyên cần,

   - Hiếu đã học cao học khoa học lịch sử. Từ những ưu thế này cộng với niềm say mê công việc sưu tầm, nghiên cứu, đúc kết, Vương Trung Hiếu đã cho ra đời hàng loạt những tác phẩm thuộc lĩnh vực biên soạn, dịch thuật tạo được tiếng vang, ấn tượng lớn trong giới nghiên cứu...

Một số sách đã xuất bản

Truyện dài

     -    Tình khúc hồng (Nhà xuất bản Trẻ,1991)

     -   Ngày chúng mình quen nhau (Nhà xuất bản Lao động, 1991)

     -    Hương Quỳnh (2 tập, Nhà xuất bản Lao động, 1992)

     -    Đêm tóc rối (2 tập, bút danh Uyên Uyên, NHX Thuận Hóa, 1993)

Danh ngôn

     -    Danh ngôn Đông phương (Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp, Vương Trung Hiếu và những người khác)(Nhà xuất bản Thanh Niên, 1991)

     -    Danh ngôn tình yêu-hôn nhân- gia đình (Việt-Anh-Pháp), VTH và Ngô Chanh (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh,1993)

     -    Danh ngôn Đông Tây Pháp Việt (VTH và Trần Đức Tuấn)(Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1994)

     -    Hán học danh ngôn (Hán-Việt) (Nhà xuất bản Văn Nghệ, 2002)

    -   Danh ngôn thế giới Anh-Việt (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1995)

    -    Lời vàng trong kinh doanh (Nhà xuất bản Phụ Nữ, 1997)

    -    Tư tưởng nhân loại (Nhà xuất bản Thanh Niên, 200

Tâm lý-hôn nhân-gia đình

     -    Chuyện tình của các danh nhân (4 tập, nhóm tác giả: Vương Trung Hiếu, Hoài Anh, Hồ Sĩ Hiệp, Hoàng Như Mai, Phan Nghị và những người khác - Nhà xuất bản Thanh Niên, 1989)

     -     Bạn gái và tình yêu (Nhà xuất bản Đồng Nai, 1995)

     -     Nghệ thuật sống hạnh phúc (Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 1996)

  • Con đường đi tới thành công (Nhà xuất bản Phụ Nữ, 1996)
  • Để giữ hạnh phúc gia đình (Nhà xuất bản Phụ Nữ, 1997)
  • Nuôi dạy con bạn cần biết (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1997)
  • Xã giao văn minh và lịch sự (Nhà xuất bản Cà Mau, 1998)
  • Hiểu người hiểu ta (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1998)
  • Họ trở thành tỷ phú như thế nào (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999)
  • Tâm sinh lý bạn trẻ (Nhà xuất bản Đồng Nai, 1999)
  • Nghệ thuật chinh phục lòng người (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2000)
  • Chuyện tình danh nhân (Nhà xuất bản Đồng Nai, 2001)
  • Thay đổi cuộc sống trong 7 ngày (nguyên tác tiếng Anh của Pat Tyrie, Vương Trung Hiếu biên dịch, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2002)
  • 80 điều cần làm để trở thành ông chủ lớn (nguyên tác tiếng Anh của David Freemantle, Vương Trung Hiếu biên dịch, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2003)
  • Mang thai và những điều cần biết (Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2007)
  • Chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ (Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2007)

Văn học dân gian

  • Tục ngữ Việt Nam chọn lọc (Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1996)
  • Tục ngữ các nước trên thế giới (Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 2000)
  • Kho tàng truyện trạng Việt Nam (5 tập, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 2001)
  • Những tập tục kỳ lạ trên thế giới (Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, 2001)
  • Ca dao Việt Nam, ca dao tình yêu (Nhà xuất bản Đồng Nai, 2006)

Trồng trọt-Chăn nuôi

  • Kỹ thuật nuôi gà chăn thả (bút danh Thoại Sơn, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2003)
  • Kỹ thuật nuôi gà công nghiệp (bút danh Thoại Sơn, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2003)
  • Kỹ thuật nuôi baba, lươn, ếch và cá rô đồng (bút danh Thoại Sơn, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2003)
  • Nuôi heo năng suất cao (bút danh Thoại Sơn, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2003)
  • Kỹ thuật nuôi dê (bút danh Thoại Sơn, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2003)
  • Kỹ thuật trồng và tạo dáng cây cảnh (Nhà xuất bản Trẻ, 2005)
  • Tìm hiểu 154 giống chó thuần chủng (Nhà xuất bản Đồng Nai, 2006)

Kỹ thuật nuôi thỏ (Nhà xuất bản Đồng Nai, 2006)

  • Kỹ thuật trồng và tạo dáng cây mai (Nhà xuất bản Lao động, 2006)
  • Kỹ thuật nuôi cá rô phi (bút danh Thoại Sơn, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2006)
  • Kỹ thuật nuôi cá tra và cá ba sa (bút danh Thoại Sơn, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2006)
  • Kỹ thuật nuôi cá chép và cá mè (Nhà xuất bản Đồng Nai, 2007)
  • Kỹ thuật nuôi cá La hán, cá dĩa, cá rồng, cá vàng, cá xiêm, cá bảy màu (Nhà xuất bản Lao động, 2007)

Thể loại khác

  • Giây phút khôn ngoan (truyện song ngữ Anh-Việt) (Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1996)
  • Những chuyện lý thú về máy vi tính (Nhà xuất bản Phụ Nữ, 1998)
  • Ảo thuật- Trò chơi vui lạ (bút danh Thoại Sơn, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2001)
  • Những thủ pháp ảo thuật (Nhà xuất bản Đồng Nai, 2003)
  • Để có trí nhớ tốt (Nhà xuất bản Đồng Nai, 2004)
  • Xây dựng nhà cửa theo phong thủy (Nhà xuất bản Lao động, 2

XIV. ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

  1. Vương Thanh Tuyền – Á khôi Hoa hậu

 

                                             VƯƠNG THANH TUYỀN

                                                    Á KHÔI HOA HẬU

                                              Đồng bằng sông Cửu Long

                                                      Sinh năm năm 1995

                                           Quê quán :  

                     Thuộc dòng họ Vương Đồng bằng sông Cửu Long

                Á khôi 2 Đồng bằng sông Cửu Long - Vương Thanh Tuyền.

     Vương Thanh Tuyền sở hữu chiều cao 1m70, nặng 55kg, số đo 3 vòng 86 – 64 – 91. Hiện cô là sinh viên năm nhất chuyên ngành sư phạm Vật lý của Trường Đại học Sài Gòn.

Vương Thanh Tuyền từng đăng quang Á khôi 2 cuộc thi Hoa khôi đồng bằng sông Cửu Long 2015, năm đó Hoa khôi Nguyễn Lệ Nam Em đã đoạt ngôi vị cao nhất của cuộc thi.

Á khôi Vương Thanh Tuyền đại diện Việt Nam thi Miss Asia Pacific International 2017

 - Vương Thanh Tuyền sẽ đại diện chính thức Việt Nam tham dự Hoa hậu Châu Á Thái Bình Dương. Cô là Á khôi 2 Hoa khôi đồng bằng sông Cửu Long 2015 (năm Nam Em đăng quang). Chưa bao giờ Việt Nam lại có nhiều đại diện tham gia các cuộc thi quốc tế liên tục như vậy.

Vương Thanh Tuyền được cử thi Hoa hậu châu Á Thái Bình Dương

Á khôi 2 Đồng bằng sông Cửu Long đang trau dồi kiến thức, kỹ năng cho cuộc thi trong khi chờ Cục Nghệ thuật Biểu diễn cấp phép.

Đại diện đơn vị nắm bản quyền cuộc thi tại Việt Nam cho biết họ đã gửi hồ sơ xin cấp phép đi thi tới Cục Nghệ thuật Biểu diễn.

Vương Thanh Tuyền sinh năm 1995, cao 1,7 m, nặng 55 kg, số đo 86 - 64 - 91 cm. Hiện cô là sinh viên năm nhất chuyên ngành Sư phạm vật lý của Đại học Sài Gòn. Vương Thanh Tuyền từng đăng quang Á khôi 2 cuộc thi Hoa khôi đồng bằng sông Cửu Long 2015. Từ khi được cử thi Miss Asia Pacific International 2017, người đẹp đã nỗ lực trau dồi kiến thức cùng nhiều kỹ năng cần thiết.

Hoa hậu châu Á Thái Bình Dương (hay Miss Asia Pacific International) tổ chức lần đầu vào năm 1968 với tên Miss Asia Quest. Năm 1985, cuộc thi đổi tên thành Miss Asia Pacific Quest, bao gồm các quốc gia không chỉ trong trong khu vực châu Á,

châu Đại Dương mà còn cả các nước châu Mỹ có biên giới tiếp giáp Thái Bình Dương. Năm 2005, cuộc thi đổi tên thành Miss Asia Pacific International và chào đón thí sinh trên toàn thế giới.

 

 

  1. SƠN TÂY - TRUNG QUỐC
  2. Vương Bột - Nhà Thơ

 

                                                 VƯƠNG BỘT

                                                    NHÀ THƠ

             Long Môn, Giang Châu nay Hà Tân - Sơn Tây, thời nhà Đường,

                          Vương Bột được xem là một trong “ Sơ Đường tứ kiệt”

                      Bốn nhà thơ kiệt xuất trong giai đoạn đầu của nhà Đường

        Về năm sinh của Vương Bột có các diễn giải khác nhau. Một thuyết theo Dương Quýnh trong Vương Bột tập tự thì ông mất năm Thượng Nguyên thứ 2 thời Đường Cao Tông khi 26 tuổi, tức năm 676. Suy ra ông sinh năm Trịnh Quán thứ 23 thời Đường Thái Tông hay năm 649. Một thuyết khác theo chính lời của Vương Bột trong Xuân tư phú là “ Hàm hanh nhị niên, dư xuân thu nhị thập hữu nhị” Năm Hàm hanh thứ 2 là năm 671, như thế suy ra  ông sinh ra năm Vĩnh Huy thứ 1 thời Đường Cao Tông, hay năm 650. Hiện nay đa phần cho rằng ông sinh năm 650 và mất 676, hưởng dương 27 tuổi.

Tháng 8 năm 878  trên đường trở về từ chuyến viếng thăm cha mình khi đó đang bị giáng chức làm huyện lệnh tại Giao Chi, ông bị chết đuối trên biển. Mộ phần của ông vẫn còn an táng tại xã Nghi Xuân, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

 

 

 

 

 

 

 

 

VIDEO CLIPS
Video
Màn Sử thi nghệ thuật "LINH THIÊNG VƯƠNG TỘC VIỆT NAM"
Lễ khánh thành Nhà thờ họ Vương Đình - Xóm Phong Phú, Hưng Hòa, TP Vinh
Màn sử thi nghệ thuật Linh thiêng Vương tộc Việt Nam
Họ Vương Việt Nam trao quà hỗ trợ Miền Trung bị thiệt hại do lũ lụt
Đại hội Họ Vương (Phần 2)
Đại hội Họ Vương (Phần 3)
Hội nghị Họ Vương 28 tháng 06 năm 2020
Hoi nghi Ho Vuong VN LẦN THỨ NHẤT THÁNG 11 NĂM 2018
Bài hát Vương Tộc ca Việt Nam
Màn sử thi chào mừng đại hội Họ Vương Việt Nam
HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN

Hotline - 0986.922.434

Ban liên lạc - 0987.516.868
Hôm nay: 3 | Tất cả: 160.521

Họ Vương Việt Nam
Ban liên lạc: 
Điện thoại: 0916.039.995 - 0987.516.868
E-mail: [email protected]
Website: http://vuongtocvietnam.com